✴️ Vắc xin gồm những thành phần gì

Nội dung

Ngoài kháng nguyên, chất ổn định, tá dược, kháng sinh và chất bảo quản - vắc xin cũng có thể chứa các sản phẩm phụ còn lại từ quá trình sản xuất. Biết chính xác những gì có trong mỗi loại vắc xin có thể hữu ích khi điều tra các tác dụng phụ sau tiêm chủng (AEFIs) và lựa chọn các sản phẩm thay thế cho những người bị dị ứng hoặc có tác dụng phụ được gây ra hoặc nghi ngờ có liên quan đến thành phần vắc xin.

Kháng nguyên

Kháng nguyên là thành phần có nguồn gốc từ cấu trúc của các sinh vật gây bệnh, được hệ thống miễn dịch công nhận là ‘ngoại lai’ và kích hoạt phản ứng miễn dịch bảo vệ khỏi vắc xin.

 

Chất ổn định

Chất ổn định được sử dụng để giúp vắc xin duy trì hiệu quả trong quá trình bảo quản. Sự ổn định của vắc xin là rất cần thiết, đặc biệt khi bảo quản lạnh không đáng tin cậy. Sự không ổn định có thể gây mất tính kháng nguyên và giảm khả năng lây nhiễm của LAV. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định là nhiệt độ và độ axit hoặc độ kiềm của vắc xin (pH Vắc xin vi khuẩn có thể trở nên không ổn định tùy thuộc quá trình thủy phân hay tổng hợp các phân tử protein và carbohydrate. Các chất ổn định bao gồm MgCl2 (đối với OPV), MgSO4 (đối với sởi), lactose-sorbitol và sorbitol-gelatine.

 

Chất bổ trợ

Chất bổ trợ được thêm vào vắc xin để kích thích sản xuất kháng thể chống lại vắc xin, làm cho nó hiệu quả hơn.

Các chất bổ trợ đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ để cải thiện phản ứng miễn dịch đối với các kháng nguyên vacine, thường gặp nhất là trong các vắc xin bất hoạt (bị giết). Trong các loại vắc xin thông thường, việc bổ sung tá dược vào công thức vắc xin là nhằm mục đích tăng cường, tăng tốc và kéo dài phản ứng miễn dịch đặc hiệu đối với các kháng nguyên vắc xin.

Các đơn vị vắc xin mới hoặc vắc xin tổng hợp được phát triển bằng cách sử dụng sinh tổng hợp, tái tổ hợp và công nghệ hiện đại khác là các kháng nguyên vắc xin kém và yêu cầu tá dược để kích thích đáp ứng miễn dịch mong muốn.Về mặt hóa học, tá dược là một nhóm hợp chất rất không đồng nhất chỉ có một điểm chung: khả năng tăng cường đáp ứng miễn dịch. Chúng rất khác nhau trong cách tác động đến hệ thống miễn dịch và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng bất lợi của chúng, do sự tăng hoạt động của hệ thống miễn dịch.

Ngày nay có hàng trăm loại tá dược khác nhau đang được sử dụng hoặc nghiên cứu trong công nghệ vắc xin.

 

Kháng sinh

Thuốc kháng sinh (với số lượng nhỏ) được sử dụng trong giai đoạn sản xuất để ngăn sự nhiễm khuẩn của các tế bào nuôi cấy mô nơi virus được phát triển. Thông thường chỉ có số lượng ít xuất hiện trong vắc xin, ví dụ, vắc xin MMR và IPV mỗi loại chứa dưới 25 microgam neomycin mỗi liều (dưới 0.000025 g). Những người có dị ứng với neomycin nên được theo dõi chặt chẽ sau khi tiêm vắc xin để bất kỳ phản ứng dị ứng nào xảy ra đều được điều trị ngay lập tức.

 

Chất bảo quản

Chất bảo quản được thêm vào vắc xin đa liều để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn và nấm. Chúng bao gồm nhiều loại chất, ví dụ như các dẫn xuất Thiomersal, Formaldehyd hoặc Phenol.

Thiomersal

  • Chất bảo quản rất dễ sử dụng. Thiomersal là một hợp chất chứa thủy ngân ethyl,
  • Nó đã được sử dụng từ những năm 1930 và không có tác dụng có hại nào được báo cáo đối với các liều sử dụng trong tiêm chủng ngoại trừ các phản ứng nhỏ (ví dụ như đỏ, sưng tại chỗ tiêm),
  • Nó được sử dụng trong các lọ đa liều và cảcác lọ đơn liều ở nhiều quốc gia vì nó giúp giảm yêu cầu /chi phí lưu trữ,
  • Thiomersal từng bị kiểm tra rất gắt gao, vì nó có chứa thủy ngân ethyl. Ủy ban tư vấn toàn cầu về an toàn vắc xin liên tục xem xét các khía cạnh an toàn của Thiomersal. Cho đến nay, không có bằng chứng về độc tính khi tiếp xúc với Thiomersal trong vắc xin. Ngay cả lượng nhỏ thiomersal dường như không có tác động đến sự phát triển thần kinh của trẻ sơ sinh.

Formaldehyd

  • Được sử dụng để làm bất hoạt virus (ví dụ: IPV) và để khử độc tố vi khuẩn, chẳng hạn như các độc tố được sử dụng để sản xuất vắc xin bạch hầu và uốn ván,
  • Trong quá trình sản xuất, một quy trình thanh lọc sẽ loại bỏ gần như toàn bộ formaldehyd trong vắc xin,
  • Lượng formaldehyd trong vắc xin thấp hơn hàng trăm lần so với lượng được biết là gây hại cho con người, ngay cả trẻ sơ sinh. Ví dụ, vắc xin DTP-HepB + Hib “5 trong 1” chứa ít hơn 0,02% formaldehyd mỗi liều, hoặc dưới 200 phần triệu.

 

Muối nhôm

Muối nhôm được tích hợp vào một số công thức vắc - xin như một chất bổ trợ tác dụng. Chất bổ trợ tác dụng là chất được thêm vào thành phần của vắc - xin để tăng cường hiệu quả đáp ứng miễn dịch của những người được tiêm chủng. Các muối nhôm được cấp phép sử dụng trong một số vắc - xin là nhôm hydroxit, nhôm phốt-phát, phèn nhôm (kali nhôm sunfat) hoặc muối nhôm hỗn hợp. Ví dụ: muối nhôm được sử dụng trong vắc - xin DTaP, vắc - xin liên hợp phòng ngừa phế cầu khuẩn (PCV13) và vắc - xin viêm gan B (HepB).

Nhôm là thành phần vắc - xin đã được chứng mình về độ an toàn trong hơn sáu thập kỷ sử dụng và chỉ liên quan đến các phản ứng nghiêm trọng tại một số khu vực. Một nghiên cứu của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) kết luận rằng nguy cơ phơi nhiễm nhôm đối với trẻ sơ sinh từ tất cả các loại vắc - xin được khuyến nghị chủng ngừa cho trẻ trong năm đầu đời là rất thấp. Nghiên cứu này cung cấp thêm thông tin khoa học xác nhận rằng lợi ích của nhôm trong vắc - xin vượt xa mọi lo ngại về mặt lý thuyết về tác hại tiềm tàng của nhôm đối với trẻ sơ sinh. Hơn nữa, nguồn cung cấp nguyên tố nhôm phổ biến nhất là từ thực phẩm và nước uống.

 

Một số vắc - xin được làm từ huyết thanh bào thai bò

Trong bào chế vắc - xin virus, nguồn virus thường được phát triển trong các tế bào. Những tế bào này cần một nguồn dinh dưỡng để duy trì sự sống. Nhiều trường hợp người ta có thể cung cấp dinh dưỡng cho tế bào bằng huyết thanh từ bào thai bò.

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top