✴️ 10 loại Vắc xin cần thiết cho trẻ nhỏ

1/ Viêm gan B

            Không giống như bất kỳ vắc-xin khác, vắc-xin viêm gan B cần được chích ngay sau khi sinh. Theo phác đồ CDC, 3 liều được tiêm trước 18 tháng tuổi. Chiến lược phòng ngừa này bắt đầu vào năm 1991, vì vậy nếu bạn hoặc người thân được sinh ra trước năm 1991, tốt nhất nên đi tiêm phòng!

2/ Rotavius

            Tiêm vắc-xin rotavirus có hai loại: Rotarix và RotaTeq. Rotarix được uống 2 liều ở tháng thứ 2 hoặc tháng thứ 4. RotaTeq được uống  3 liều lúc 2, 4 và 6 tháng. Ngay cả khi tiêm vắc-xin, đứa trẻ vẫn có nguy cơ bị nhiễm rotavirus.

            Rotavirus ảnh hưởng trên cả người lớn và nghiêm trọng hơn ở trẻ em. Một người có thể nhiễm loại virus này nhiều lần trong đời, gây ra tiêu chảy nặng, đau bụng, sốt, chán ăn và mất nước.

3/ Bạch hầu, uốn ván và ho gà (DTaP)

            Vắc-xin DTaP được tiêm 5 liều cho trẻ từ 2 tháng đến 6 tuổi.

            DTaP là 3 mối đe dọa lớn và cần phải tiêm vắc-xin để phòng bệnh Bạch hầu, uốn ván và bệnh ho gà. Điều thú vị là DTaP có thể được kết hợp thêm để tiêm vắc-xin phòng chống cúm Haemophilus Type b (Hib), vắc xin bại liệt bất hoạt và vắc xin Viêm gan B.

            Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn rất nghiêm trọng có thể bắt gặp từ một người khác hắt hơi hoặc ho hoặc từ một vật trung gian (như đồ chơi, xà phòng hoặc khăn). Bạch hầu gây đau họng, sốt, yếu và sưng hạch bạch huyết ở cổ.

            Uốn ván là do vi khuẩn Clostridium gây ra và làm co cứng tất cả các cơ trên cơ thể. Vi khuẩn Clostridium xâm nhập vào cơ thể thông qua một vết thương hở và chúng sống trong đất (có thể do đạp phải đinh rỉ sét).

            Ho gà là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn rất dễ lây lan. Mặc dù hiếm khi xảy ra, ho gà cũng cần được phòng ngừa. Bệnh có thể gây ra những cơn ho không kiểm soát được. Những cơn ho này khiến bệnh nhân khó thở.

 4/ Cúm Haemophilus type b (Hib) 

            Liều dùng cho vắc-xin Haemophilus cúm loại b (Hib) hơi phức tạp. Cần tiêm nhắc lại có thể đến 4 liều vắc-xin sau khi tiêm mũi đầu tiên, , bắt đầu sớm nhất là 6 tuần và kết thúc sau 15 tháng. Nếu trẻ có một hệ thống miễn dịch suy yếu vì bất kỳ lý do gì (nhiễm HIV, hóa trị hoặc vv), có thể cần nhiều liều hơn.

            Hib có thể gây viêm não, viêm phổi, viêm mô tế bào (nhiễm trùng da) và viêm nắp thanh quản. Hib có thể để lại di chứng nặng nề ở trẻ em.

5/ Vắc-xin phế cầu liên hợp

            CDC khuyến nghị 2 loại vắc-xin phế cầu khuẩn: PCV13 và PPSV23. Tiêm vắc-xin PCV13 được tiêm cho tất cả trẻ em và PPSV23 được khuyến nghị cho một số nhóm nguy cơ cao và người lớn từ 65 tuổi trở lên. Hơn nữa, PPSV23 được đưa ra sau 2 tuổi; trong khi đó, PCV13 được tiêm 4 liều bắt đầu lúc 2 tháng và kết thúc sau 15 tháng.

            Vắc-xin phế cầu khuẩn bảo vệ chống lại phế cầu khuẩn có thể gây nhiễm trùng, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng:

  • Viêm phổi nặng
  • Nhiễm trùng tai
  • Viêm xoang
  • Viêm màng não
  • Nhiễm khuẩn huyết (nhiễm trùng máu)

6/ Vi-rút bại liệt bất hoạt

            Vắc-xin bại liệt được tiêm 4 liều từ 2 tháng đến 6 tuổi.

Bệnh bại liệt hoặc nhiễm trùng do vi-rút bại liệt phổ biến ở các quốc gia đang phát triển nơi có ít người được tiêm phòng.

7/ Cúm

            Đối với trẻ em từ 6 tháng đến 8 tuổi, vắc-xin cúm được tiêm hàng năm trong một hoặc hai liều (cách nhau ít nhất 4 tuần). Đối với trẻ trên 7 tuổi, vắc-xin được tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.

            Cúm rất dễ lây lan và lây lan nhanh chóng trong không khí, nơi tập trung nhiều người qua lại. Thông thường, trẻ em sẽ mang virus về nhà và lây nhiễm cho các thành viên khác trong gia đình.

8/ Sởi, Quai bị và Rubella (MMR)

            Vắc-xin sởi, quai bị và rubella (MMR) thường được tiêm trong 2 liều: một liều lúc 12 đến 15 tháng và một liều sau 4 đến 6 năm.

            Sởi là một bệnh truyền nhiễm rất cao, tàn lây lan nhanh ở những nơi rất công cộng. Nhiễm trùng sởi gây sốt, sổ mũi, đau họng, phát ban. Các biến chứng như viêm phổi và viêm não (nhiễm trùng não) có thể gây tử vong.

            Virus quai bị gây ra các triệu chứng cấp tính khác nhau bao gồm sốt, nhức đầu, mệt mỏi và viêm hoặc sưng tuyến nước bọt. Quai bị cũng có thể nhiễm trùng tinh hoàn và gây viêm có thể dẫn đến vô sinh.

            Nhiễm vi-rút rubella có các triệu chứng tương đối nhẹ và thời gian ngắn. Trong khoảng một nửa số người bị nhiễm bệnh, rubella gây ra phát ban ở mức độ thấp, bắt đầu trên mặt và lan sang phần còn lại của cơ thể. Viêm các tuyến phía sau cổ, đầu đi kèm với phát ban. Ở những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm bệnh, nhiễm rubella nghiêm trọng hơn nhiều và gây ra đục thủy tinh thể bẩm sinh cần phải được phẫu thuật cắt bỏ.

9/ Thuỷ đậu (varicella)

Vắc-xin Varicella thường được tiêm trong 2 liều: một liều lúc 12 đến 15 tháng và liều thứ hai sau 4 đến 6 năm.

Virus varicella zoster gây bệnh thủy đậu và bệnh zona (herpes zoster), một bệnh nhiễm trùng da khu trú gây đau đớn cho bệnh nhân.

10/ Viêm gan A

            Vắc-xin viêm gan A bao gồm hai liều được đưa ra trong khoảng từ 12 đến 24 tháng. Hai liều phải cách nhau từ 6 đến 18 tháng.

            May mắn thay, không giống như viêm gan B và C, viêm gan A không gây ra bệnh gan mạn tính và hiếm khi gây tử vong. Nó thường được tìm thấy ở các nước đang phát triển có điều kiện vệ sinh kém, theo WHO, 90 phần trăm trẻ em bị nhiễm bệnh trước 10 tuổi.

            Các triệu chứng của viêm gan A có thể từ sốt nhẹ đến nặng, tiêu chảy, khó chịu ở bụng, chán ăn, nước tiểu sậm màu và vàng da hoặc vàng da và mắt.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top