Tác giả: Nguyễn Thị Lan Minh*, Nguyễn Hữu Nhân Duyên*, Nguyễn Thanh Tâm*
Phạm Thị Ngọc Hương*, Huỳnh Lê Cẩm Nhi *, Nguyễn Thị Tú Ngân*
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
TÓM TẮT
Mục tiêu: Chỉ số huyết áp và các yếu tố liên quan ở người bệnh đột quỵ vào khoa Cấp Cứu bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các người bệnh được chẩn đoán nghi ngờ đột quỵ tại khoa Cấp cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh hoặc thân nhân không hợp tác tham gia nghiên cứu, bị xuất huyết não do vỡ túi phình, tai nạn giao thông.
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu : Mô tả hàng loạt.
Thời gian lấy mẫu tháng 4/2022 đến 10/2022,
Phương pháp tiến hành Lập phiếu khảo sát cho người bệnh vào cấp cứu nghi ngờ đột quỵ
Lấy chỉ số huyết áp: Lần 1: tại thời điểm tiếp nhận. Lần 2: 60 phút sau khi đo lần 1.
Chẩn đoán xác định đột quỵ: căn cứ vào tổn thương trên kết quả MSCT hoặc MRI
Phỏng vấn trực tiếp người bệnh hoặc thân nhân, ghi nhận thông tin trong sổ khám bệnh, toa thuốc, giấy ra viện, hồ sơ bệnh án.
Công cụ thu thập số liệu: excel, minitab 18.
Kết quả: Có 470 người bệnh đột quỵ vào khoa Cấp Cứu bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong thời gian nghiên cứu
Đột quỵ do xuất huyết não chiếm 30%, nhồi máu não chiếm 70%, gặp ở nam > nữ, độ tuổi trung bình 64,9 ± 12,5, yếu tố nguy cơ đột quỵ THA chiếm 69,8%, ĐTĐ 36,6%, tim mạch 20,2%, đột quỵ 17,2%, suy thận mạn 10,6%. Điểm glasgow ≤8 ở người XHN gấp 4 lần người NMN (P=0,00). 16,5% sử dụng rtPA, 5,9% can thiệp mạch, 4,0% phẫu thuật cấp cứu. Sau điều trị: ra viện 84,7%, 11,5% xin về, 1,7% tử vong (xin về và tử vong XHN > NMN)
Huyết áp tâm trương trung bình lúc vào viện là 164,9 (90-250) mmHg, Huyết áp tâm trương của nhóm nhồi máu não thấp hơn nhóm xuất huyết não (P=0,00). Huyết áp tâm trương trung bình giảm sau nhập viện 1 giờ là 6,1% (9,9 ± 18,7 mmHg) (P= 0,00) ( XHN giảm 8,5%, NMN giảm 4,8%). 65,3% XHN có HA ≥ 140 mmHg và 44,8% NMN có HA ≥ 180 mmHg có sử dụng thuốc hạ áp tại Cấp cứu.
Mối liên quan giữa người bệnh đột quỵ có tiền sử THA
69,8% người bệnh đột quỵ có tiền sử THA (NMN: 74,7%, XHN 61,7%) THA và đột quỵ có mối liên quan (P=0,002). 59,5% không tuân thủ điều trị huyết áp (12,5% không điều trị, 30,1% quên uống thuốc > 6 ngày/tháng, 50,8% không tái khám > 3 lần/năm).
Kết luận:
Có 470 người bệnh đột quỵ vào khoa Cấp Cứu bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong thời gian nghiên cứu
Có 30% đột quỵ do xuất huyết não, 70% nhồi máu não, nam > nữ, tuổi trung bình 64,9 ± 12,5. Số lượng người bệnh đột quỵ do nhồi não máu nhập Cấp cứu sớm chưa cao (16,5% sử dụng rtPA).
Huyết áp tâm trương trung bình lúc vào viện là 164,9 (90-250) mmHg, nhóm xuất huyết não có huyết áp cao hơn nhóm nhồi máu não. Chỉ số huyết áp tâm trương sau 1 giờ tại cấp cứu giảm 6,1% (9,9 ± 18,7 mmHg). Dùng thuốc hạ áp tại cấp cứu chưa cao (XHN 65,3%, NMN 44,8%).
THA và đột quỵ có mối liên quan, 59,5% không tuân thủ điều trị huyết áp (12,5% không điều trị, 30,1% quên uống thuốc > 6 ngày/tháng, 50,8% không tái khám > 3 lần/năm).
Từ khóa: Đột quỵ, xuất huyết não, nhồi máu não.
KẾT LUẬN
Có 470 người bệnh đột quỵ vào khoa Cấp Cứu bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong thời gian nghiên cứu
Đột quỵ do xuất huyết não chiếm 30%, nhồi máu não chiếm 70%, gặp ở nam > nữ, độ tuổi trung bình 64,9 ± 12,5, Yếu tố nguy cơ đột quỵ THA chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến, ĐTĐ, tim mạch, đột quỵ, suy thận mạn. Điểm glasgow ≤8 ở người bệnh XHN cao gấp 4 lần người bệnh NMN (P=0,00). 16,5% sử dụng rtPA, 5,9% được can thiệp mạch, 4,0% phẫu thuật cấp cứu. Kết thúc sau đợt điều trị: ra viện 84,7%, 11,5% xin về và 1,7% tử vong (xin về và tử vong XHN > NMN)
Huyết áp tâm trương trung bình lúc vào viện là 164,9 (90-250) mmHg, Huyết áp tâm trương của nhóm nhồi máu não thấp hơn nhóm xuất huyết não (P=0,00). Huyết áp tâm trương trung bình giảm sau nhập viện 1 giờ là 6,1% (9,9 ± 18,7 mmHg) (P= 0,00) ( XHN giảm 8,5%, NMN giảm 4,8%). 65,3% XHN có HA ≥ 140 mmHg và 44,8% NMN có HA ≥ 180 mmHg có sử dụng thuốc hạ áp tại Cấp cứu.
Mối liên quan giữa người bệnh đột quỵ có tiền sử THA
69,8% người bệnh đột quỵ có tiền sử THA (NMN: 74,7%, XHN 61,7%) THA và đột quỵ có mối liên quan (P=0,002). 59,5% không tuân thủ điều trị huyết áp (12,5% không điều trị, 30,1% quên uống thuốc > 6 ngày/tháng, 50,8% không tái khám > 3 lần/năm).
ĐỀ XUẤT
Theo kết quả NC chỉ số huyết áp của người bệnh đột quỵ có thể tăng rất cao (250 mmHg) điều dưỡng lưu ý tuân thủ đúng qui trình đo huyết áp, trang bị máy đo có bao quấn tay vừa tránh bong bao khi bơm áp lực cao.
Cần xem xét sử dụng thuốc hạ áp sớm tại cấp cứu.
Cung cấp thêm thông tin truyền thông nhắc nhỡ người bệnh tuân thủ chế độ điều trị huyết áp, dùng thuốc đúng và tái khám theo hẹn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO