– Phồng hay phình động mạch chủ là tình trạng một đoạn động mạch giãn rộng, với đường kính đoạn giãn ≥ 1.5 lần đường kính của động mạch bình thường lân cận. Đường kính động mạch chủ trung bình của người Việt Nam từ 16-20mm, do vậy đa số tác giả thống nhất gọi là phình khi đường kính động mạch chủ ≥ 30mm.
– Do thay đổi cấu trúc thành mạch (xơ vữa) làm một đoạn thành động mạch chủ yếu đi và giãn to => phồng, thường là phồng hình thoi. Nếu khối phình lớn, lớp áo trong và áo giữa bị mỏng đi, đôi khi không thể xác định được ở một số đoạn của thành mạch.
– Biến chứng hay gặp là của phồng động mạch chủ bụng là phồng dọa vỡ hay vỡ phồng. Đây là một cấp cứu ngoại khoa với tỷ lệ tử vong cao.
– Nguyên nhân & Yếu tố nguy cơ:
+ Tuổi: thường xảy ra ở những người 60 tuổi trở lên.
+ Thuốc lá: là một yếu tố nguy cơ mạnh cho sự phát triển phình động mạch chủ. Trẻ em đã hút hoặc nhai thuốc lá, nguy cơ càng lớn.
+ Tăng huyết áp: tăng huyết áp thường gây thiệt hại mạch máu trong cơ thể, nâng cao cơ hội phát triển phình động mạch.
+ Xơ vữa động mạch: xơ vữa động mạch, sự tích tụ chất béo và các chất khác có thể gây tổn thương thành mạch máu, yếu tố làm tăng nguy cơ phình động mạch.
+ Nam giới: đàn ông nguy cơ phát triển phình động mạch chủ từ năm đến 10 lần nhiều hơn phụ nữ. Tuy nhiên, phụ nữ với phình động mạch chủ có nguy cơ vỡ cao hơn so với các nam giới.
+ Chủng tộc: thường xảy ra ở người da trắng hơn so với ở những người của các chủng tộc khác.
+ Gia đình: những người có tiền sử gia đình phình động mạch chủ có nguy cơ gia tăng mắc bệnh. Những người có tiền sử gia đình của chứng phình động mạch có xu hướng phát triển chứng phình động mạch ở độ tuổi trẻ hơn và có nguy cơ vỡ cao hơn.
Phân loại theo DeBakey có 3 type:
Phân loại theo Stanford gồm 2 kiểu:
Mục đích của điều trị nội khoa nhằm ổn định vết nứt tách, phòng vỡ chỗ phình tách, tăng cường quá trình liền của vết tách và làm giảm nguy cơ biến chứng. Điều trị nội khoa trong các trường hợp sau:
Phẫu thuật trong các trường hợp sau: