Tỷ lệ áp xe thận dao động từ 1-10 trường hợp trên 10.000 trường hợp nhập viện. Viêm thận bể thận dẫn đến áp xe vỏ thận là rất hiếm. Mặc dù khoảng 75% áp xe vỏ thận xảy ra ở nam giới, áp xe thận cũng phổ biến như nhau ở nam và nữ. Tuy nhiên, áp xe thận rất hiếm khi không có yếu tố nguy cơ.
Áp xe thận có thể do vi khuẩn từ nhiễm trùng đến thận gây ra. Vi khuẩn có thể di chuyển qua máu hoặc trong nước tiểu để đi vào thận. Trong thận, vi khuẩn có thể lây lan đến các mô thận.
Áp xe thận không phải là một bệnh phổ biến. Nó thường xảy ra do các vấn đề chung như:
Áp xe thận đôi khi có thể hình thành do nhiễm trùng ở các bộ phận khác của cơ thể. Áp xe trên da và lạm dụng thuốc tiêm tĩnh mạch cũng có thể dẫn đến áp xe thận.
Nhiễm trùng đường tiết niệu phức tạp cũng có thể khiến một người có nguy cơ bị áp xe thận nếu liên quan đến:
- Sỏi tiết niệu
- Thai kỳ
- Bàng quang thần kinh
- Đái tháo đường
Bệnh nhân có thể phòng ngừa áp xe thận bằng cách điều trị bất kỳ bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc bất kỳ tình trạng nhiễm khuẩn nào ngay lập tức.
Tác nhân vi khuẩn chủ yếu gây áp xe thận là vi khuẩn gram âm đường ruột, thường kết hợp với bất thường đường tiết niệu. E coli chịu trách nhiệm cho 75% các bệnh nhiễm trùng này. Khoảng 15-20% các trường hợp là do các vi khuẩn Klebsiella, Proteus, Enterobacter và Serratia gây ra. Một vài trường hợp còn lại của áp xe thận là do vi khuẩn gram dương, bao gồm Streptococcus faecalis và, ít phổ biến hơn, S.aureus (Tụ cầu vàng).
Ở hầu hết bệnh nhân bị viêm thận bể thận cấp, điều trị bằng kháng sinh thích hợp sẽ có đáp ứng lâm sàng trong vòng 1 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Tuy nhiên, áp xe lớn với thành nguyên vẹn thường khó điều trị bằng kháng sinh đơn độc, với hầu hết các nghiên cứu hạn chế chỉ chấp nhận điều trị áp xe thận bằng kháng sinh đối với các tổn thương nhỏ hơn 3 cm.
Ở hầu hết các bệnh nhân nghi ngờ áp xe nhu mô thận, kịp thời điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch với phổ tác dụng chống lại vi khuẩn đặc hiệu nuôi cấy được. Ngoài ra có thể bổ sung dịch truyền tĩnh mạch. Điều trị thuốc đơn thuần nên được giới hạn ở những bệnh nhân ổn định về huyết động với áp xe nhỏ hơn <3 cm. Bệnh nhân có dấu hiệu bất ổn huyết động do nhiễm trùng huyết hoặc áp xe thận lớn (≥ 3 cm) nên được dẫn lưu qua da hoặc phẫu thuật để xử lý áp xe. Hơn nữa, chỉ điều trị thuốc uống trong điều trị áp xe đáy chậu là không phù hợp, vì nguy cơ tử vong liên quan đến áp xe đáy chậu được điều trị bằng kháng sinh đơn thuần lên tới 33%.
Dẫn lưu có thể được thực hiện bằng phẫu thuật hoặc bằng nội soi qua da sau phúc mạc. Xquang và siêu âm được sử dụng để xác định vị trí dẫn lưu. Dẫn lưu áp xe qua da là một kỹ thuật mới và là phương pháp đang được sử dụng nhiêu nhất.
Dẫn lưu áp xe qua da
Nói chung, áp xe thận lớn cần dẫn lưu nếu bệnh nhân bị sốt dai dẳng và không có cải thiện lâm sàng sau 1 tuần điều trị kháng sinh. Dẫn lưu qua da cộng với kháng sinh toàn thân được chỉ định là phương pháp điều trị tốt nhất cho áp xe có kích thước 3 - 5 cm. Áp xe thận có thể được dẫn lưu qua da theo CT hoặc hướng dẫn siêu âm.