✴️ Chẩn đoán và điều trị bệnh trầm cảm (P1)

Nội dung

1. KHÁI NIỆM

1.1. Định nghĩa của WHO về bệnh trầm cảm

“Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập trung”.

Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể khả năng làm việc, học tập hoặc khả năng đương đầu với cuộc sống hàng ngày. Trường hợp nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Ở mức độ nhẹ, bệnh có thể được hỗ trợ chữa trị không cần dùng thuốc. Mức độ vừa và nặng, người bệnh cần được hỗ trợ điều trị bằng thuốc kết hợp với biện pháp tâm lý.

1.2. Nguyên nhân

Cho đến nay nguyên nhân trầm cảm chưa được rõ, có thể có sự tham gia của nhiều yếu tố, bao gồm sự tương tác qua lại giữa các yếu tố bên ngoài (văn hóa, tình huống xã hội, quan hệ xã hội…) với các yếu tố bên trong (di truyền, thái độ, tính cách, sang chấn tinh thần, tổn thương thời thơ ấu do sinh học như: tổn thương não, thiếu hụt dẫn truyền thần kinh, mất cân bằng hormon…).

Một số yếu tố nguy cơ gây khởi phát trầm cảm bao gồm: sự cô đơn (thường ở người già), stress, thất nghiệp, đổ vỡ hôn nhân, thói quen sử dụng chất kích thích, tuổi thơ bị lạm dụng, có vấn đề về sức khỏe hoặc bệnh lý đau mạn tính…

 

2. CHẨN ĐOÁN VÀ PHÂN LOẠI

2.1. Chẩn đoán

- Theo DSM-V:

Trầm cảm thường khởi phát lặng lẽ, mơ hồ, phần lớn các triệu chứng biểu hiện khác nhau tùy theo từng người, từng giới tính, độ tuổi, không ai giống ai. Để chẩn đoán một người mắc bệnh trầm cảm thường căn cứ vào hệ thống phân loại bệnh DSM-V. Theo bảng phân loại này, chẩn đoán một người bị trầm cảm khi có ít nhất 5 trong 9 triệu chứng sau, kéo dài ít nhất hai tuần:

1) Tâm trạng buồn bã, chán nản gần như cả ngày: Có thể nhận biết chủ quan qua cảm giác buồn chán, trống rỗng hoặc khách quan bởi người khác (ví dụ như thấy người bệnh hay khóc…).

2) Giảm hứng thú hoặc niềm vui trong hầu như tất cả mọi hoạt động.

3) Giảm hay tăng cân một cách đáng kể mà không phụ thuộc vào chế độ ăn (thay đổi hơn 5% trọng lượng cơ thể) hoặc giảm hay tăng cảm giác thèm ăn so với mọi ngày.

4) Mất ngủ hay ngủ quá mức.

5) Quá kích động hoặc quá chậm chạp (có thể quan sát bởi những người khác chứ không đơn thuần là cảm giác chủ quan.

6) Mệt mỏi hoặc cảm giác mất năng lượng.

7) Cảm giác vô dụng, tội lỗi quá mức hoặc ảo tưởng mỗi ngày.

8) Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung, thiếu quyết đoán.

9) Suy nghĩ thường xuyên về cái chết, có ý định tự tử lặp đi lặp lại nhiều lần.

Ngoài những triệu chứng kể trên có thể có sự khác biệt theo giới tính, độ tuổi. Trẻ em trầm cảm thường có biểu hiện buồn bã, khó chịu, thất vọng. Thanh thiếu niên thường có biểu hiện như lo lắng, hay cáu giận, ngại giao tiếp. Người trưởng thành thường biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, mất ngủ, không hài lòng với mọi thứ, thích ngồi lỳ trong nhà. Thông thường nam giới bị trầm cảm không có sự đa sầu yếu đuối như phụ nữ mà ngược lại họ có thể trở nên bạo lực hơn.

- Theo ICD-10 (phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10)

Khi bệnh nhân có từ 5 triệu chứng trong 9 triệu chứng sau và kéo dài ít nhất 2 tuần lễ thì được chẩn đoán là trầm cảm. Nhưng nếu bệnh nhân có ý tưởng và hành vi tự sát thì thời gian không cần đến 2 tuần.

 1) Khí sắc giảm: Vẻ mặt buồn rầu, nét mặt của họ trở nên đơn điệu, ánh mắt chậm chạp, lơ đãng.

2) Giảm hoặc mất sự quan tâm thích thú: Những thích thú trước đây của bệnh nhân bị giảm hoặc mất. Ví dụ trước bệnh nhân rất thích xem bóng đá, đi chợ mua sắm thì bây giờ họ không thích nữa.

3) Người mệt mỏi: Họ rất khó khăn để khởi động một công việc nào đó, dù những công việc nhỏ nhất. ví dụ buổi sáng ngủ dậy việc vệ sinh cá nhân như đánh răng, rửa mặt đối với họ cũng trở nên nặng nhọc.

4) Giảm tính tự trọng và lòng tự tin: Người bệnh mất tự tin vào bản thân và họ cảm thấy thất bại trong cuộc sống.

5) Nhìn tương lai ảm đạm bi quan: Họ cảm thấy nảm lòng về tương lai và không có gì mong đợi ở tương lai cả. Con người sống được là họ cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa, có tương lai. Nhưng với bệnh nhân trầm cảm tương lai họ là một mầu xám vì vậy họ hay tìm đến cái chết.

6) Giảm sự tập trung chú ý: Khó suy nghĩ, khó tập trung vào một việc nào đó, khó đưa ra những quyết định dù là những quyết định nhỏ nhất ví dụ đi chợ mua gì cho bữa tối… người bệnh cũng rất khó khăn để đưa ra quyết định. Ý tưởng bị tội và không xứng đáng. Người bệnh có cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi. Họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc. và họ đã trở thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội. họ còn phóng đại những sai lầm nhỏ trước đây. và họ luôn luôn tự trách bản thân mình.

7) Có ý tưởng và hành vi tự sát: Hầu hết bệnh nhân trầm cảm đều có những ý nghĩ về cái chết. Nặng hơn thì họ có ý định tự sát và hành vi tự sát. Họ nghĩ rằng bệnh mình nặng và họ bi quan về tương lai nên dễ tìm đến cái chết để tự giải thoát cho mình.

8) Rối loạn giấc ngủ: Đa số bệnh nhân trầm cảm có triệu chứng mất ngủ. Bệnh nhân thường mất ngủ giữa giấc. nghĩa là tỉnh ngủ vào ban đêm và khó ngủ lại được. Mất ngủ là triệu chứng làm người bệnh suy sụp nhanh nhất và cũng là lý do để họ đi khám bệnh. Họ thấy đêm rất dài và những suy nghĩ miên man xuất hiện trong họ như một mối bòng bong. Và những suy nghĩ tiêu cực thường xuất hiện trong những đêm dài trằn trọc… Hiếm gặp hơn có bệnh nhân trầm cảm thì lại ngủ nhiều, họ có thể ngủ từ 10 đến 12 tiếng mỗi ngày. Nhưng khi ngủ dậy họ thường rất uể oải, mệt mỏi.

9) Ăn uống không ngon miệng: Đa số bệnh nhân trầm cảm mất cảm giác ngon miệng, họ ăn rất ít. Nhiều bệnh nhân đến bữa ăn đối với họ là một gánh nặng, mặc dù đã rất cố gắng nhưng họ vẫn ăn được rất ít. Có khoảng 5% bệnh nhân trầm cảm lại tăng cảm giác ngon miệng, họ ăn nhiều hơn hàng ngày và tăng cân.

2.2. Phân loại các thể bệnh

1) Trầm cảm ẩn (Trầm cảm che giấu- Marked Depression)

Những triệu chứng của  trầm cảm che giấu (trầm cảm ẩn) biểu hiện bệnh bằng các triệu chứng cơ thể như đau ống tiêu hóa, bệnh nhân hay đi khám xét  bệnh về dạ dày, đại tràng nhiều lần nhưng không phát hiện ra tổn thương ống tiêu hóa. Bệnh nhân có cảm giác đau vùng trước tim, cảm giác đau rất mơ hồ ở ngực trái và bệnh nhân đã đi khám tim mạch như siêu âm tim, điện tim nhưng kết quả tim mạch hoàn toàn bình thường. Bệnh nhân đau xương, đau cơ, đau bả vai, đau tiết niệu đau sinh dục… cảm giác đau thường mơ hồ, không cố định không đặc trưng cho cơ quan nào. Bệnh nhân rất lo lắng về bệnh tật, luôn đi khám và điều trị ở nhiều chuyên khoa khác nhau như tim mạch, tiết niệu, tiêu hóa, thần kinh, xương khớp nhưng bệnh không thuyên giảm với những điều trị đặc hiệu của những chuyên khoa này. Dần dần người bệnh mất niềm tin vào thầy thuốc, mặc dù trong lòng rất lo lắng và rất muốn đi chữa bệnh. Trầm cảm che giấu (trầm cảm ẩn) tuy triệu chứng rất đa dạng và khó nhận biết nhưng khi đã được bác sĩ chuyên khoa thăm khám và phát hiện ra bệnh thì vấn đề điều trị cũng không quá phức tạp.

2) Trầm cảm có loạn thần (trầm cảm paranoid)

Đây là một thể trầm cảm nặng. Cùng với những triệu chứng của trầm cảm đã mô tả ở trên bệnh nhân còn có hoang tưởng và ảo giác kèm theo. Bệnh nhân thường có hoang tưởng nghi bệnh và hoang tưởng tự buộc tội.

3) Trầm cảm ở người cao tuổi

Ở người cao tuổi trầm cảm có thể kèm theo rối loạn nhận thức như rối loạn chú ý, rối loạn trí nhớ. Bệnh nhân thường quên nhiều, đặc biệt là quên những sự việc mới xẩy ra (giảm trí nhớ gần), còn gọi là mất trí giả. Khi bệnh nhân được điều trị thì trí nhớ hồi phục hoàn toàn. Bệnh nhân có thể có hoang tưởng nghi bệnh, họ cho rằng mình bị bệnh nặng, bệnh nan y như ung thư, xơ gan, bệnh tim mạch nặng…

4) Trầm cảm ở người vị thành niên

Theo tổ chức y tế thế giới lứa tuổi vị thành niên là từ 10 - 19 tuổi. Các triệu chứng trầm cảm ở người vị thành niên cũng giống như người lớn nhưng có một vài điểm khác biệt sau.
- Cảm xúc thường bị kích thích (chứ không trầm) vẻ mặt bệnh nhân cáu giận.. Khả năng kiềm chế cảm xúc rất thấp vì vậy rất dễ nổi khùng trước một kích thích không vừa ý dù là rất nhỏ.
- Mất ngủ nhiều, có thể thức trắng đêm nên bệnh nhân dễ lạm dụng game, internet. Người bệnh thường lang thang trên mạng suốt đêm.
- Mệt mỏi thường xuyên.
- Khó tập trung chú ý, trí nhớ kém vì vậy học hành thường giảm sút.
- Hay có ý định và hành vi tự sát.

5) Trầm cảm sau sinh

Xảy ra ở phụ nữ sau khi sinh trong vòng khoảng 6 tuần. Theo DSM-IV cũng như ICD-10, rối loạn tâm thần sau sinh không được ghi thành một chương riêng biệt và không có tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng. Hiện nay người ta vẫn chưa thống nhất được có nên xếp trầm cảm sau sinh là một rối loạn riêng biệt hay không. Trong khi một số tác giả cho rằng rối loạn tâm thần sau sinh là một nhóm các rối loạn có liên quan đặc biệt đến việc mang thai và sinh đẻ nên cần tồn tại một chẩn đoán riêng biệt.

Biểu hiện:

- Rối loạn Cảm xúc: Khí sắc trầm kéo dài, cảm giác không xứng đáng, thất bại, bất lực, tuyệt vọng, kiệt sức, trống rỗng, buồn rầu, chực khóc, cảm giác tội lỗi, hối hận, vô giá trị. Lẫn lộn, lo âu, hoảng sợ. Sợ đứa trẻ, sợ mất trẻ. Sợ ở một mình, sợ đi ra ngoài

- Rối loạn hành vi: Mất quan tâm thích thú trong các hoạt động thường ngày. Giảm sinh lực và động cơ. Ngại giao tiếp xã hội. Ít chăm sóc bản thân. Không có khả năng xử lý các công việc thường ngày

- Rối loạn suy nghĩ: Suy nghĩ kém minh mẫn, không thể quyết định việc gì. Kém tập trung chú ý, giảm trí nhớ. Trốn tránh mọi thứ. Sợ bị chồng bỏ rơi. Lo lắng về sự tổn hại hoặc cái chết của chồng, con. Có ý nghĩ về tự sát. 

- Suy sụp về thể chất: Mệt mỏi, mất ngủ hoặc ngủ nhiều hay có ác mộng, ăn không ngon miệng, gầy sút cân.

 

Xem tiếp: Chẩn đoán và điều trị bệnh trầm cảm (P2)

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top