Về chẩn đoán: Cơn hoảng loạn (panic attack) là 1 cơn sợ hãi hoặc lo sợ dữ dội xuất hiện đột ngột, đạt đỉnh trong vòng vài phút, kéo dài vài phút đến vài giờ và trong cơn BN có ít nhất 4 trong 13 triệu chứng sau [1]:
Trên thế giới, có 35–50% người trưởng thành sẽ trải qua cơn hoảng loạn vào một thời điểm nào đó trong đời [7]. Thường gặp ở nữ hơn nam nhưng đặc điểm lâm sàng của cơn không có sự khác biệt giữa hai giới. Cơn hoảng loạn có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở tuổi trưởng thành và trung niên, tuổi trung bình khởi phát cơn là 22-23 tuổi, ít gặp ở trẻ em và người già [1].
Về cơ chế: Về mặt sinh lí, cơn hoảng loạn là nỗi sợ hãi tức thời ngắn hạn, là phản ứng sinh lí của cơ thể để đối phó hoặc trốn thoát khỏi nguy hiểm nhằm bảo vệ chúng ta khỏi hiểm nguy [6].
1. Hệ thần kinh :
2. Hệ tim mạch:
3. Hệ hô hấp:
4. Các cơ quan khác:
Tóm lại, những thay đổi về thể chất trên là cơ sở của các triệu chứng cơn hoảng loạn nhằm bảo vệ cơ thể khỏi tác nhân gây nguy hiểm. Các triệu chứng là có thật, nhưng chúng không có hại, thậm chí còn có lợi đối với cơ thể. Tuy nhiên, một khi cơn hoảng loạn xảy ra trong tình huống không có nguy hiểm là một bất thường. Như đã đề cập ở trên, cơn hoảng loạn khiến não bộ tìm kiếm mối nguy hiểm xung quanh. Đôi khi ta không thể tìm thấy một mối đe dọa rõ ràng nào. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta không thể chấp nhận việc không có lời giải thích cho các cơn hoảng loạn của bản thân. Đặc biệt là những người lo âu, trầm cảm, họ sẽ nghĩ “nếu không có gì để giải thích cho cảm giác hoảng sợ của tôi thì chắc chắn có điều gì đó không ổn với tôi”. Sau đó, bộ não tự đưa ra một lời giải thích, chẳng hạn như: “Tôi sắp chết, mất kiểm soát hoặc phát điên.”. Những suy nghĩ tiêu cực về các triệu chứng thực thể của cơn hoảng loạn góp phần vào một chu kỳ dẫn đến các suy nghĩ tiêu cực khác, các triệu chứng thể chất và hành vi hoảng sợ ngày càng nhiều hơn. Sau một số lần trải qua cơn hoảng loạn, nỗi sợ hãi về các triệu chứng của cơn có thể xảy ra “tự động” mà chúng ta không hề nhận ra, chúng ta chỉ cảm thấy sợ và không biết tại sao. Đây là cơ sở của việc sử dụng liệu pháp hành vi-nhận thức để điều trị cơn hoảng loạn.
Về phân loại: Gồm 2 loại :
Cơn hoảng loạn không dự kiến được (unexpected) : là các cơn hoảng loạn xảy ra khi có yếu tố kích gợi hoặc dấu hiệu rõ ràng, như là những tình huống đặc trưng hay xuất hiện cơn hoảng loạn.
Cơn hoảng loạn dự kiến được (expected) : là các cơn hoảng loạn xảy ra bất ngờ, đột ngột, không có yếu tố kích gợi rõ ràng tại thời điểm xảy ra cơn.
Về nguyên nhân: Trên 50% BN có cơn hoảng loạn thường đồng mắc một rối loạn tâm thần bất kì, đặc biệt là rối loạn hoảng loạn, rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn trầm cảm chủ yếu, rối loạn trầm cảm mạn tính [2]. Tuy nhiên, các triệu chứng của cơn hoảng loạn tương tự triệu chứng trong nhiều tình trạng y khoa khác như rối loạn tim mạch và hô hấp, tiêu hóa, nội tiết, rối loạn sử dụng chất…[4] Một số bệnh lí có thể có cơn hoảng loạn như cường giáp, cường cận giáp, u tủy thượng thận, lạm dụng cafein hoặc các chất kích thích khác (cocaine, metamphetamine..), hẹp van 2 lá, động kinh cục bộ phức tạp, đau đầu migraine, hen, hội chứng ngưng thở khi ngủ,….[3] [1]. Do đó, khi tiếp cận BN có cơn hoảng loạn, trước khi nghĩ các bệnh lí tâm thần, việc khai thác bệnh sử đầy đủ, khám lâm sàng kỹ lưỡng, đo điện tâm đồ thường quy, định lượng hormone TSH và FT4 trong máu và xét nghiệm chất/thuốc trong nước tiểu hoặc máu là cần thiết để loại trừ (rule-out) các bệnh lí cấp tính đe dọa tính mạng [3].
Bảng 1 liệt kê các chẩn đoán phân biệt chính cần đặt ra khi tiếp cận một BN có cơn hoảng loạn tại phòng cấp cứu và cách phân biệt dựa vào triệu chứng và test cần thiết [1],[7].
ảng 1 : Các chẩn đoán phân biệt với cơn hoảng loạn
Chẩn đoán phân biệt |
Triệu chứng |
Test tầm soát |
Tim mạch |
Trong bệnh tim, đau ngực thường xuất hiện khi gắng sức, kèm bất thường ECG và troponin
|
• Có các yếu tố nguy cơ tim mạch không? • Khai thác kỹ tính chất cơn đau ngực • Điện tâm đồ • Tổng phân tích tế bào máu • Troponin |
Rối loạn nhịp nhanh kịch phát (ví dụ: nhịp nhanh trên thất hoặc rung nhĩ -AF) có thể gây ra đánh trống ngực ngắt quãng, điện tâm đồ bình thường.
|
• Holter ECG |
|
Hô hấp |
Các triệu chứng có thể bao gồm thở khò khè, ho, ho có đờm, suy hô hấp, đau ngực. |
• Có tiền sử bệnh phổi không?
|
Các bệnh đường thở mãn tính (hen, COPD) có thể có triệu chứng lo lắng hoặc yếu tố kích gợi. |
• Đo SpO2 • Chụp X quang ngực • Hô hấp ký |
|
Thuyên tắc phổi: Tức ngực, nhịp nhanh xoang, cảm giác buồn nôn.
|
• Hỏi tiền sử và thăm khám cẩn thận • Tiêu chuẩn loại trừ thuyên tắc phổi (PERC) • Tiêu chuẩn Wells • D-Dimer • CTPA |
|
Nội tiết
|
Cường giáp: Các triệu chứng có thể bao gồm giảm cân, không chịu nhiệt được, nóng, vã mồ hôi, bướu giáp, mắt lồi. |
• FT4, TSH – tăng FT4, giảm TSH |
Cường cận giáp |
• Định lượng calci huyết thanh |
|
Nhiễm trùng |
Sốt, khó chịu, đổ mồ hôi, ho, lo lắng chỉ xuất hiện trong thời kỳ nhiễm trùng.
|
• Tổng phân tích tế bào máu • Cấy máu |
Nhiễm toan |
Nhiễm toan chuyển hóa do đái tháo đường, suy thận, do ngộ độc thuốc có thể xuất hiện tăng thông khí để bù toan. |
• Tổng phân tích tế bào máu • Urea và Creatinine • Khí máu tĩnh mạch |
Tiêu hóa |
Loét dạ dày tá tràng: Đau vùng thượng vị, thường khi đói hoặc sau khi ăn và tình trạng này sẽ thuyên giảm bằng thức ăn hoặc thuốc kháng axit.
|
• Thử nghiệm thuốc ức chế bơm proton (PPI) • Chuyển đến khoa tiêu hóa nếu được chỉ định |
Bệnh Crohn/ hội chứng ruột kích thích (IBS): tiêu chảy mãn tính, sụt cân, đau hạ sườn phải, chướng hơi, đầy bụng.
|
• Dấu hiệu viêm (số lượng bạch cầu, CRP, tốc độ lắng máu) |
|
Rối loạn sử dụng chất |
Ngộ độc các chất kích thích hệ thần kinh trung ương (ví dụ: cocaine, metamphetamine, caffein) hoặc cai các chất ức chế hệ thần kinh trung ương (ví dụ, rượu, barbiturat) có thể dẫn đến một cơn hoảng loạn. Hỏi kỹ tiền sử để xác định xem BN có bị các cơn hoảng loạn trước khi sử dụng chất.
|
Các đặc điểm như khởi phát sau 45 tuổi, xuất hiện các triệu chứng không điển hình trong cơn hoảng loạn (ví dụ: chóng mặt, mất ý thức, đại tiểu tiện không tự chủ, nói lắp) gợi ý khả năng một tình trạng y khoa khác hoặc rối loạn sử dụng chất đang gây ra các triệu chứng cơn hoảng loạn. |
Sau khi đã loại trừ được các bệnh lí nguy hiểm trên, tìm kiếm Rối loạn tâm thần tiềm ẩn gây ra cơn hoảng loạn là cần thiết.
Về hậu quả: Mặc dù cơn hoảng loạn không gây nguy hiểm về tính mạng, có thể tự hồi phục dù không điều trị gì. Tuy nhiên, phần lớn cơn hoảng loạn thường đi kèm với các bệnh lí khác, các cơn hoảng loạn mức độ nặng có liên quan đến khả năng cao hơn tiến triển rối loạn hoảng loạn và các rối loạn tâm thần khác, làm tăng độ nặng của bệnh, đáp ứng kém với điều trị. Hơn nữa, tần suất xuất hiện cao của cơn hoảng loạn cũng ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của BN, do BN lo sợ mình mắc bệnh nặng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ nên họ tăng nhu cầu chăm sóc sức khỏe (nhập viện nhiều lần, đi khám nhiều nơi, làm nhiều xét nghiệm); theo thời gian BN cũng trở nên đặc biệt tập trung vào cơ thể mình, luôn cảnh giác với những thay đổi về nhịp tim hoặc tần số thở từ kinh nghiệm của các cơn hoảng loạn họ trải nghiệm trước đó và tránh các hoạt động mà họ nghĩ có thể gây ra các cơn tương tự (ví dụ: tập thể dục) nên gây ra những suy giảm chức năng nghề nghiệp, học tập đáng kể; thậm chí tăng nguy cơ tự sát ở những BN đồng mắc các RL tâm thần khác[1] [5].
Về điều trị: Nguyên tắc xử trí cơn hoảng loạn:
TLTK
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh