Đái dầm là rắc rối phổ biến ở trẻ em. Tuy không phải là bệnh lý nghiêm trọng nhưng nó khiến trẻ gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp xã hội và có thể dẫn tới sự căng thẳng cao độ trong gia đình.
Tác động tâm lý tiêu cực nhất của đái dầm là làm xói mòn lòng tự tin ở trẻ. Khi mắc chứng bệnh này, đa số trẻ nghĩ có điều gì đó không ổn với con người mình. Nhiều bé tin đó là sự trừng phạt cho những suy nghĩ hay việc làm sai lầm của bản thân.Tương tự như vậy, nhiều phụ huynh cũng tự trách mình không giỏi làm cha mẹ.
Cảm giác tội lỗi càng bị đẩy cao nếu bạn bè hay người thân cho rằng sự bất ổn về tâm lý là nguyên nhân khiến bé đái dầm. Sự căng thẳng và mệt mỏi kéo dài có thể khiến cha mẹ nổi nóng, thậm chí còn trừng phạt khi con đái dầm.
Hiểu thấu đáo nguyên nhân gây bệnh sẽ giúp cha mẹ tìm ra những biện pháp điều trị hiệu quả nhất cho con.
Đái dầm là tình trạng tiểu tiện không tự chủ trong khi ngủ. Các bác sĩ chưa thống nhất về tiêu chuẩn chẩn đoán đái dầm:
Hội Tâm thần Hoa Kỳ: đái dầm ≥ 2 lần/tuần, trong ít nhất 3 tháng liền (trẻ > 5 tuổi).
Tổ chức Y tế Thế giới: đái dầm 2 lần/tháng (< 7 tuổi) hay 1 lần/tháng (> 7 tuổi).
Đái dầm được chia làm 2 loại: tiên phát và thứ phát.
Đái dầm tiên phát: Trẻ có thể kiểm soát việc đi tiểu ban ngày nhưng chưa thể liên tục giữ khô ráo về đêm trong ít nhất 6 tháng. Đây là dạng đái dầm phổ biến nhất.
Đái dầm thứ phát: Trẻ hoàn toàn khô ráo về đêm trong ít nhất 6 tháng nhưng sau đó lại đái dầm.
Ở đái dầm thứ phát, điều mấu chốt là tìm kiếm những thay đổi mới xảy ra:
Rõ ràng là có gì đó khác thường. Bước đầu tiên để giải quyết vấn đề là tìm ra bất kỳ thay đổi nào trong cuộc đời của trẻ.
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy, khoảng 1,5-8,9% trẻ em trong cộng động mắc chứng đái dầm. Đái dầm tự khỏi cùng với thời gian, mỗi năm khoảng 15% trẻ thoát khỏi tình trạng này mà không cần điều trị.
Khi lên 5 tuổi, khoảng 20% trẻ em mắc chứng đái dầm tiên phát, tỷ lệ này giảm xuống còn 1% ở tuổi 16. Nếu không điều trị, một số trẻ sẽ đái dầm suốt đời.
Nước tiểu được sản xuất tại thận và di chuyển theo hai ống tên là niệu quản để tới bàng quang. Bàng quang là một túi cơ đựng nước tiểu cho tới khi sẵn sàng giải phóng nó qua niệu đạo, ống nối bàng quang với bên ngoài cơ thể.
Nước tiểu được giải phóng khi cơ vòng (ở cổ bàng quang) giãn ra và cơ co thắt (ở thành bàng quang) thắt lại. Cơ vòng thư giãn có tác dụng như cánh cửa mở, cho phép nước tiểu rời cơ thể. Để tiểu tiện thành công, cơ co thắt và cơ vòng phải hoạt động cùng lúc. Quá trình này diễn ra một cách vô thức.
Phần lớn trẻ em giữ được khô ráo về đêm khi 3-5 tuổi. Trẻ đạt được điều này nhờ hai cách sau:
Bàng quang gửi tín hiệu tới não nói rằng túi đã đầy, não sẽ gửi tín hiệu ngược lại, ra lệnh cho bàng quang giãn ra để có thể chứa thêm nước tiểu.
Nếu bàng quang không thể giữ toàn bộ nước tiểu cho tới sáng, nó sẽ tiếp tục gửi tín hiệu tới não cho tới khi trẻ thức dậy và đi vệ sinh.
Đái dầm xuất hiện nếu trẻ chậm phát triển một trong hai kỹ năng nói trên.
Tuy rất nhiều yếu tố góp phần gây ra đái dầm, trong phần lớn trường hợp, bệnh tật không phải nguyên nhân chính.
1. Di truyền
Nghiên cứu cho thấy đái dầm tiên phát thường mang tính di truyền. Nếu cha và mẹ từng đái dầm khi nhỏ, nguy cơ đái dầm của con cái sẽ là 77%. Tỷ lệ này giảm còn 44% nếu chỉ bố hoặc mẹ từng đái dầm, và còn 15% nếu không ai trong cha mẹ từng đái dầm. Với đái dầm tiên phát, hầu như bao giờ cũng tìm được một người họ hàng từng mắc chứng này.
2. Giảm dung tích bàng quang
Dung tích bàng quang ở trẻ đái dầm thường thấp hơn bạn bè cùng trang lứa. Ban ngày, trẻ có bàng quang nhỏ phải đi tiểu thường xuyên hơn, đôi khi phải chạy vội vào nhà vệ sinh để tránh sự cố. Khi ngủ, khả năng giữ nước tiểu suốt đêm của những trẻ này cũng thấp hơn. Điều đáng ngạc nhiên là khi gây mê để kiểm tra, người ta thấy bàng quang của các bé này có kích thước hoàn toàn bình thường. Điều này có nghĩa là bàng quang không hề nhỏ về mặt giải phẫu, nhưng trẻ có cảm giác bàng quang đầy trước khi túi này đầy thực sự. Thuật ngữ y học dùng cho trường hợp này là giảm dung tích chức năng.
3. Tăng sản xuất nước tiểu về đêm
Ban đêm não sản xuất một loại hoóc môn gọi là vasopressin, có tác dụng tăng tái hấp thu nước vào dòng máu, nhờ đó giảm lượng nước tiểu sản xuất ở thận. Giảm sản xuất nước tiểu về đêm cho phép chúng ta ngủ tới sáng mà không phải dậy đi tiểu. Tuy các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn chưa thống nhất, có vẻ như một số trẻ đái dầm vì không sản xuất đủ hoóc môn này.
4. Không thể tỉnh giấc
Suốt thời gian dài, người ta cho rằng trẻ đái dầm khi đang chìm trong giai đoạn ngủ sâu. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy trẻ có thể đái dầm trong tất cả các giai đoạn của giấc ngủ. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng một số trẻ không đáp ứng với các tín hiệu bên trong cơ thể khi ngủ: trẻ đái dầm không có khả năng tỉnh giấc khi bàng quang đạt dung tích tối đa.
5.Táo bón
Đa số cha mẹ ít quan tâm tới việc đi ngoài của con khi chúng đã học được cách ngồi bô. Điều này giải thích vì sao táo bón lại là nguyên nhân đái dầm hay bị bỏ sót.
Khi trực tràng bị đầy, phân có thể ép vào bàng quang, khiến cơ quan này 'hiểu nhầm' và gửi tín hiệu thần kinh tới não như khi bàng quang bị đầy.
Trực tràng đầy phân làm giảm dung tích bàng quang hoặc khiến trẻ không thể làm rỗng tối đa cơ quan này.
Điều trị táo bón có thể làm giảm hoặc chữa lành chứng đái dầm.
6. Các yếu tố tâm lý
Trẻ có thể bị đái dầm thứ phát sau những căng thẳng đáng kể như chuyển nhà, chuyển trường, mất người thân, cha mẹ ly dị hay bị lạm dụng tình dục. Đái dầm thường mất đi khi rắc rối tâm lý được xử lý. Tuy nhiên, cha mẹ cần nhớ rằng rắc rối tâm lý không gây đái dầm tiên phát.
7. Lạm dụng tình dục
Lạm dụng tình dục có thể là một yếu tố gây đái dầm ở trẻ trước đó không gặp khó khăn trong vấn đề này. Cần nghĩ tới lạm dụng tình dục nếu thấy trẻ có các biểu hiện: nhiễm trùng tiết niệu mạn tĩnh, ra nhiều chất tiết vì bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, ngứa hoặc đau ở bộ phận sinh dục.
8. Các tình trạng bệnh lý
Chưa tới 3% trường hợp đái dầm có nguyên nhân là tình trạng bệnh lý. Việc thăm khám tỉ mỉ và làm một số xét nghiệm nước tiểu sẽ giúp phát hiện vấn đề. Đái dầm có thể đi kèm ngừng thở khi ngủ, bệnh thiếu hồng cầu hình liềm, nhiễm trùng tiết niệu, tiểu đường và một số bệnh lý thần kinh. Bệnh lý thường xuất hiện nhiều hơn trong đái dầm thứ phát.
Trước khi bàn về vấn đề điều trị đái dầm, có hai điểm quan trọng cần bàn tới. Thứ nhất, cha mẹ cần thông suốt rằng đái dầm không phải hành vi cố ý. Thứ hai, phần lớn bác sĩ nhi khoa chỉ bàn luận vấn đề đái dầm khi trẻ 6 tuổi hoặc hơn.
Trong điều trị, quan trọng nhất là xác định xem bé đã sẵn sàng hợp tác hay chưa, điều này đặc biệt quan trọng trong điều trị hành vi. Nếu bé chưa sẵn sàng hợp tác, việc điều trị cần được trì hoãn hay đơn giản hóa cho tới khi bé sẵn sàng.
Phần lớn trẻ em bắt đầu tỏ ra quan tâm tới vấn đề này lúc 6-7 tuổi. Có 5 dấu hiệu nhận biết con đã sẵn sàng hợp tác để thoát đái dầm:
1. Hạn chế đồ uống
2. Đánh thức bé vào ban đêm
Đánh thức và đưa bé vào nhà vệ sinh vài giờ sau khi đi ngủ. Trong đa số trường hợp, bé sẽ nửa tỉnh nửa mê khi đi vệ sinh.
Một số bác sĩ cho rằng phương pháp này khiến tình trạng đái dầm trở nên trầm trọng hơn, lý do là thay vì để bé học cách nhận biết bàng quang đã đầy khi đang ngủ, phương pháp này chỉ tập cho bàng quang tống nước tiểu ra ngoài vào khoảng thời gian nhất định mỗi đêm.
Một số bác sĩ coi đây là biện pháp đơn giản mà cha mẹ có thể áp dụng trong khi chờ đợi bé tự thoát khỏi đái dầm hay trở nên hợp tác để thoát đái dầm.
Một số tài liệu cho thấy biện pháp này tỏ ra hiệu quả, có thể giúp bé thoát đái dầm.
Cha mẹ cần chú ý khuyến khích bé chịu một phần trách nhiệm cho việc đái dầm như đi tiểu đều đặn trước khi đi ngủ, để áo quần bị ướt vào chậu giặt. Động viên và khen thưởng khi bé qua được một đêm khô ráo. Giúp bé lập lịch theo dõi sự tiến bộ và dán cho bé một tấm hình ngộ nghĩnh cho mỗi đêm không đái dầm.
3. Điều trị bàng quang
Trước đây, các bác sĩ khuyến cáo cho trẻ đái dầm tập các bài căng giãn bàng quang:
Phương pháp này không còn được khuyến cáo vì các lý do:
Điều trị bàng quang hiện đại hướng trẻ tới việc tập trung hơn vào chức năng bàng quang, khuyến khích bé:
4. Đồng hồ báo thức cho trẻ đái dầm
Thiết bị này giúp đánh thức bé khi bé đái dầm. Nó gồm 2 phần chính: bộ phận cảm nhận ẩm ướt được cài vào quần lót và chuông để đánh thức bé. Một số thiết bị có thêm khả năng rung, giúp đánh thức bé hiệu quả hơn. Có 3 loại đồng hồ báo thức: đồng hồ đeo lên người, đồng hồ không dây và thảm gắn chuông.
Khi trẻ đái dầm, nước tiểu sẽ kích hoạt bộ phận cảm biến, làm chuông kêu to, đánh thức bé dậy đi vệ sinh. Sau nhiều tuần nghe chuông, bé học được cách nhận biết các tín hiệu của bàng quang và tỉnh dậy trước khi đái dầm. Bé có thể khỏi đái dầm sau 3 tháng luyện tập.
Nghiên cứu cho thấy đồng hồ báo thức mang lại hiệu quả cao nhất, lên tới 75%, và tỷ lệ tái phát thấp nhất so với các phương pháp điều trị chống đái dầm khác.
Một nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi rất nhiều công sức của bé và gia đình. Cả nhà phải thức giấc thường xuyên vào ban đêm trong suốt thời gian dài, điều không phải ai cũng có thể chấp nhận.
5. Liệu pháp tâm lý
Đây là lựa chọn cho trẻ đái dầm thứ phát do những thay đổi hay chấn thương tâm lý trong cuộc đời, hoặc cho trẻ quá mất tự tin vì tật đái dầm.
Có một vài loại thuốc được sử dụng để điều trị đái dầm. Có thể dùng thuốc đơn độc hoặc kết hợp với điều trị hành vi.
Thuốc không mang lại hiệu quả kéo dài và đa số trẻ đái dầm trở lại khi ngừng thuốc, vì vậy bác sĩ thường khuyến cáo cho trẻ dùng thuốc trong thời gian ngắn, hoặc dùng với mục đích kiểm soát triệu chứng nếu các biện pháp khác đều thất bại.
1. Desmopressin (Minirin)
Là thuốc tổng hợp tương tự vasopressin, có tác dụng ức chế thận sản xuất nước tiểu.
Hiệu quả ở 50% bệnh nhân.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy desmopressin có tác dụng tốt hơn ở trẻ lớn, trẻ có dung tích bàng quang bình thường.
Thuốc không gây nguy hiểm nếu dùng đúng chỉ định.
Chú ý hạn chế lượng nước uống vào sau bữa ăn tối để đề phòng giảm natri trong máu.
Desmopressin có dạng uống và dạng xịt mũi, thuốc được dùng trước khi đi ngủ và vẫn hiệu quả cả khi không dùng đều đặn mỗi đêm. Vì thuốc tiềm ẩn nguy cơ tác dụng phụ nguy hiểm nên cần được sử dụng một cách thận trọng dưới sự kiểm soát của bác sĩ.
Năm 2007 Cục quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) đã yêu cầu ngừng dùng Desmopressin dạng xịt để điều trị đái dầm tiên phát. Nguyên nhân là do bên cạnh các tác dụng phụ không nguy hiểm như gây khó chịu ở mũi, chảy máu cam, đau bụng, đau đầu, thuốc dạng xịt còn gây co giật do hạ natri máu, có thể dẫn tới tử vong.
Cũng theo FDA, thuốc dạng viên vẫn tiếp tục được sử dụng nhưng cần tạm dừng điều trị trong thời gian bệnh cấp tính có thể dẫn tới mất cân bằng nước điện giải như sốt, nôn, tiêu chảy, tập luyện thể lực nặng và những tình trạng đòi hòi trẻ phải uống nhiều nước. Cần hạn chế uống nước từ 1 giờ trước đến 8 giờ sau khi dùng thuốc.
Các triệu chứng sớm của ngộ độc nước bao gồm đau đầu, buồn nôn và nôn. Nếu xuất hiện các triệu chứng này, cần ngừng cho bé dùng thuốc và đưa bé đi khám bác sĩ ngay. Trẻ tăng động giảm chú ý cần được kiểm soát lượng dịch uống vào một cách sát sao, đề phòng những hành động bột phát.
Năm 2013, Khoa Thận Bệnh viện Nhi Trung ương đã tiến hành thử nghiệm sử dụng Minirin cho 35 trẻ đái dầm tiên phát. Kết quả cho thấy, điều trị bằng Minirin mang lại tỷ lệ thành công cao nhất sau 3 tháng (70,8%), đau đầu xuất hiện ở 17% trẻ dùng thuốc.
2. Imipramine
Một loại thuốc trầm cảm.
Từ phát hiện về tình trạng khó tống nước tiểu ra khỏi bàng quang ở một số bệnh nhân dùng Imipramine để điều trị trầm cảm, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu thuốc này trên bệnh nhân đái dầm.
Hiệu quả thu được là 40%.
Lo ngại lớn nhất là sự chênh lệch quá nhỏ giữa liều hiệu quả và liều gây độc. Imipramine là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất khiến trẻ tử vong vì ngộ độc ở Anh. Trẻ có thể chết vì vô tình dùng thuốc quá liều. Một số bác sĩ cho rằng thuốc không đủ an toàn để sử dụng trong các bệnh lành tính như đái dầm.
3. Oxybutynin
Là thuốc kháng tiết cholin, có tác dụng chống co thắt, thường được kê cho bệnh nhân có bàng quang hoạt động quá độ. Những bệnh nhân này bị co thắt bàng quang không thể kiểm soát, phải đi tiểu liên tục, mót tiểu đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Trẻ có bàng quang hoạt động quá mức thường đái dầm nhiều hơn 1 lần mỗi đêm và cũng đái dầm cả ban ngày.
Oxybutynin không phải thuốc điều trị hiệu quả cho đái dầm. Tuy nhiên, khi sử dụng kết hợp với đồng hồ báo thức hay desmopressin, nó giúp làm thư giãn bàng quang đủ để các biện pháp kia trở nên hiệu quả hơn.
Các biện pháp điều trị như châm cứu, thôi miên, dùng thuốc tolterodine, atomoxetine không được coi là tiêu chuẩn vì chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh