Khi bệnh nhân có gan nhiễm mỡ trên trên mô học hoặc trên chẩn đoán hình ảnh (siêu âm bụng, CT scan, MRI…). Thường kèm theo những yếu tố nguy cơ như béo phì, đái tháo đường 2, rối loạn mỡ máu .
Không có nguyên nhân gây gan nhiễm mỡ thứ phát khác như uống nhiều rượu, nhiễm viêm gan siêu vi C, bệnh Wilson, loạn dưỡng mỡ, thiếu ăn, dinh dưỡng ngoài đường miệng kéo dài, do thuốc (amiodarone, methotrexate, tamoxifen, corticosteroids, valproate, anti-retroviral…), gan nhiễm mỡ cấp ở phụ nữ có thai, khiếm khuyết chuyển hóa bẩm sinh.
Nam uống >210 gram alcohol/ 1 tuần trên 2 năm.
Nữ uống >140 gram alcohol/ 1 tuần trên 2 năm.
(Tiêu chuẩn này có thể khác nhau chút ít đối với các hiệp hội khác nhau)
1 ly (30 ml) rượu mạnh (40 độ), 1 ly (100 ml) rượu vang (13,5 độ), 1 ly (330 ml) bia hơi, 2/3 chai hoặc lon bia chứa 10g alcohol.
Gồm những người bị béo phì, ĐTĐ 2, rối loạn mỡ máu, hội chứng chuyển hóa, hội chứng buồng trứng đa nang, suy giáp, hội chứng ngưng thở lúc ngủ, suy tuyến yên, suy tuyến sinh dục, cắt tá tràng tụy.
Béo phì là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Đái tháo đường type 2: Một vài nghiên cứu đã gợi ý rằng khoảng một phần ba đến hai phần ba bệnh nhân đái tháo đường bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Rối loạn mỡ máu: Triglycerid máu cao, HDL cholesterol máu thấp cũng phổ biến trong bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Tỉ lệ bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu trong nhóm bệnh nhân rối loạn mỡ máu khoảng 59 %.
Tỉ lệ bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và mức độ bệnh gan tăng theo tuổi.
Tỉ lệ bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu ở nam cao gấp 2 lần nữ.
Tỉ lệ bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu cũng khác nhau giữa các sắc tộc. Điều này được giải thích là do sự khác nhau về yếu tố gen.
Trong 2 thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu về diễn tiến tự nhiên của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Đối với những bệnh nhân đã diễn tiến qua viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, đặc biệt là xơ hóa gan (Fibrosis) thì có tăng nguy cơ cao hơn về xơ gan (cirrhosis), tỉ lệ tử vong do bệnh gan.
Bệnh nhân bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có tăng tỉ lệ tử vong toàn bộ so với nhóm chứng không bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu có tăng tỉ lệ tử vong do bệnh gan.
Ngày nay, ở Mỹ, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 của ung thư tế bào gan, tỉ lệ ung thư tế bào gan do bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu tăng 9 % hằng năm, điều này nghĩ là do tăng tỉ lệ béo phì. Khoảng 13 % bệnh nhân bị ung thư tế bào gan do bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu mà không có xơ gan.
Các nghiên cứu trên thế giới đã xác nhận rằng số lượng bệnh nhân ung thư tế bào gan do bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu ngày càng tăng. Ung thư tế bào gan do bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu cần ghép gan đứng hàng thứ 2 về các nguyên nhân gây ung thư gan. Và trong tương lai nó sẽ là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan, vượt qua ung thư gan do viêm gan virus, cần được ghép gan.
Tất cả những cá nhân có tăng men gan kéo dài, nên sàng lọc về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, vì đây là nguyên nhân nhân phổ biến của tăng men gan không giải thích được.
Những cá nhân bị béo phì: Theo dõi bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là bắt buộc, bởi vì béo phì là yếu tố nguy cơ của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và cũng làm tăng nguy cơ bệnh tiến triển.
Những cá nhân bị đái tháo đường type 2: sàng lọc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là bắt buộc, bất kể nồng độ men gan, bởi vì trên đối tượng bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ cao về tiến triển bệnh. Cá nhân bị rối loạn mỡ máu, hội chứng chuyển hóa.
Gan nhiễm mỡ nên được xác định bằng siêu âm bụng, bởi vì siêu âm có sẵn rộng rãi và siêu âm bụng còn phát hiện thêm các thông tin về gan mật. Vì vậy siêu âm bụng là chẩn đoán hình ảnh đầu tiên phải thực hiện trên bệnh nhân bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác là controlled attenuation parameter (CAP) để chản đoán gan nhiễm mỡ: Kỹ thuật này có thể xác định mức độ nhiễm mỡ.
Các chỉ số đánh giá gan nhiễm mỡ tốt nhất bao gồm: FLI ((Fatty liver index), SteatoTest và NAFLD liver fat score.
Bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu có tăng nguy cơ về tiến triển xơ hóa gan, xơ gan và có thể ung thư gan. Những bệnh nhân này cần theo dõi sát và cần điều trị tích cực hơn.
Các dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm hóa sinh, chẩn đoán hình ảnh không thể phân biệt được viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và gan nhiễm mỡ đơn thuần.
Chẩn đoán xác định việm gan nhiễm mỡ không do rượu bằng sinh thiết gan.
Xơ hóa gan là một yếu tố tiên lượng quan trọng trên bệnh nhân bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Xơ hóa gan có tương quan với dự hậu và tỉ lệ tử vong do bệnh gan. Cần theo dõi sát tiến triển xơ hóa gan.
Các thang điểm đánh giá mức độ xơ hóa gan bao gồm: NFS ((NAFLD fibrosis score, FIB-4 (Fibrosis 4), ELF (Enhanced Liver Fibrosis) và FibroTest. NFS có thể phân biệt được có xơ hóa gan nặng và không có xơ hóa gan nặng.
Đánh giá xơ hóa gan bằng kỹ thuật đo độ đàn hồi gan, là kỹ thuật không xâm lấn, dùng để xác định các trường hợp nguy cơ thấp xơ hóa gan nặng và xơ gan.
Sự phối hợp các dấu ấn sinh học, chỉ số đánh giá xơ hóa gan , đo độ đàn hồi gan có thể làm tăng độ chính xác cho chẩn đoán, và tránh làm sinh thiết gan.
Theo dõi diễn tiến xơ hóa gan trong thực hành lâm sàng có thể dựa vào sự phối hợp các dấu ấn sinh học, chỉ số đánh giá xơ hóa gan và đo độ đàn hồi gan.
Nếu bệnh nhân chỉ bị gan nhiễm mỡ đơn thuần, không có viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, không có xơ hóa gan thì cần có chế độ ăn lành mạnh và hoạt động thể lực, chưa cần điều trị thuốc.
Đối với bệnh hân nhân bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, dư cân, béo phì, giảm 7-10 % cân nặng là mục tiêu điều trị, làm giảm men gan và cải thiện mô học gan.
Các khuyến cáo về chế độ ăn: nên xem xét hạn chế năng lượng và loại bỏ các thành phần thức ăn thúc đẩy bẹnh gan nhiễm mỡ không do rượu (Thực phẩm chế biến, thực phẩm và đồ uống có hàm lượng fructose cao). Tăng cường lượng rau, trái cây (mỗi ngày nên ăn tối thiểu 300g rau xanh, 200g quả chín tươi). Ưu tiên chọn dầu thực vật (trừ dầu dừa), hạn chế mỡ động vật (trừ mỡ cá). Một số thức ăn được xem là “thuốc” có tác dụng “giảm mỡ” tốt như: dầu đậu nành, đậu hà lan, cà chua tươi chín, ớt vàng, rau ngót, rau cần tây, diếp cá, tỏi, bắp chuối (bông chuối)…; trái cây nên lưu ý chanh, cam, quýt, bưởi, táo chín… trà xanh, hoa hòe… Hạn chế ăn thực phẩm giàu cholesterol như mỡ động vật, các loại đồ lòng, phủ tạng, da…động vật, lòng đỏ trứng, não gan gia súc…
Lựa chọn môn thể dục nào tùy thuộc sở thích của bệnh nhân và có thể duy trì lâu dài được. Khám định kỳ chuyên khoa gan để được theo dõi, tư vấn và có hướng điều trị thích hợp kịp thời.
Điều trị thuốc đối với bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, đặc biệt đối với bệnh nhân xơ hóa gan đáng kể (> F2). Đối với những bệnh nhân không có các tình trạng trên, nhưng có nguy cơ cao của bệnh tiến triển (Đái tháo đường, hội chứng chuyển hóa, tăng men gan dai dẵng, viêm hoại tử cao) có thể điều trị thuốc để ngăn ngừa bệnh tiến triển
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Bệnh viện Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh