– Sỏi đường mật (Biliary stones) là bệnh tạo sỏi trong hệ thống đường dẫn mật (bao gồm túi mật và đường dẫn mật). Sỏi đường mật có thể được thành lập ngay trong hệ thống dẫn mật được gọi là sỏi tiên phát hoặc sỏi từ túi mật di chuyển xuống đường mật chính được gọi là sỏi thứ phát.
– Thần phần hóa học:
+ Sỏi cholesterol (14,8%): sỏi này không cản quang và thường chỉ có một viên, màu vàng sẫm, hình bầu dục hoặc tròn.
+ Sỏi sắc tố mật (3,2%): sỏi này nhỏ và cứng, có màu xanh hoặc nâu hoặc óng ánh đen, thành phần có sắc tố mật và calcium, kém cản quang.
+ Sỏi hỗn hợp (52%): thành phần chủ yếu là cholesterol 94%, sắc tố mật 3%, calcium 2%. Loại sỏi này cản quang và thường có nhiều viên.
+ Sỏi carbonat calcium: sỏi có thể phối hợp hoặc không phối hợp với bilirubin calcique, sỏi có tính cản quang.
– Sỏi mật ở châu Âu, Mỹ thường gặp ở túi mật, do rối loạn chuyển hóa => sỏi Cholesterol
– Sỏi Việt Nam thường gặp sỏi đường mật, do nhiễm khuẩn (giun) => tiết enzym B Glucoronidase gây phá hủy liên hợp giữa bilirubin và acid glucuronic làm albumin trở thành dạng tự do không hòa tan => kết hợp chất vô cơ như Calci => muối calci bilirubinat lắng đọng tạo sỏi.
– Sỏi được tạo trên cơ sở dị vật như trứng, xác giun hay mảnh tế bào niêm mạc bong.
– Dịch mật thường nhiễm khuẩn, biểu hiện từ nhẹ (vẩn đục) đến nặng (mủ), hay rất nặng (đen, thối). Vi khuẩn đường ruột như E.coli, Klebsiella và hình thái nặng là vi khuẩn kị khí Bacteroides, Clostridium.
– Lâm sàng:
+ Đau quặn mật: cơn đau dữ dội ở vùng bụng trên, thường xảy ra sau bữa ăn nhiều chất béo.
+ Viêm đường mật cấp tính: Tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng của đường mật, có thể gây sốt, đau bụng và vàng da.
+ Vàng da do tắc nghẽn: Sỏi gây cản trở dòng chảy của mật, dẫn đến vàng da và mắt.
+ Viêm tụy cấp: Sỏi có thể gây tắc nghẽn tại đầu tụy, dẫn đến viêm tụy cấp tính, một tình trạng nguy hiểm.