Viêm gan B và viêm gan C đều là bệnh viêm gan do virus và chúng có các triệu chứng tương tự nhau. Sự khác biệt đáng kể nhất giữa viêm gan B và viêm gan C là mọi người có thể bị nhiễm viêm gan B khi tiếp xúc với chất dịch cơ thể của người bị nhiễm bệnh, viêm gan C thường chỉ lây lan qua đường tiếp xúc máu.
Viêm gan B và C đều không lây lan qua đường hô hấp, sữa mẹ, dùng chung thức ăn với hoặc ôm người bị nhiễm bệnh.
Nhiều người bị viêm gan không nhận biết được bệnh này cho đến khi bệnh tiến triển nặng.
Tiếp xúc với virus viêm gan B có thể gây nhiễm trùng cấp tính trong vòng 6 tháng đầu. Tình trạng này gây ra các triệu chứng giống như cúm.
Mặc dù có thể mắc bệnh viêm gan B khi tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh, nhưng sự lây truyền thường xảy ra qua chất dịch cơ thể. Quá trình lây truyền viêm gan B có thể xảy ra qua đường tình dục và mẹ có thể truyền bệnh cho em bé trong khi sinh.
Sau giai đoạn này, một số trường hợp có thể hồi phục, những trường hợp sẽ phát triển bệnh viêm gan B mãn tính.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) báo cáo rằng một người càng trẻ khi mắc bệnh viêm gan B thì càng có nhiều khả năng bị nhiễm trùng mãn tính. Ví dụ, ước tính khoảng 90% trẻ sơ sinh nhiễm virus sẽ có tình trạng viêm gan mãn tính.
Sự lây truyền thường xảy ra do sinh nở, quan hệ tình dục không an toàn với người mang virus, dùng chung kim tiêm hoặc thiết bị y tế có dính máu hoặc dùng chung vật dụng cá nhân như dao cạo hoặc bàn chải đánh răng.
Viêm gan C cũng có thể gây nhiễm trùng cấp tính. Theo Viện Quốc gia về Bệnh tiểu đường, Tiêu hóa và Bệnh thận Hoa Kỳ (NIDDK), ước tính khoảng 75 đến 85% những người bị viêm gan C cấp tính cũng sẽ phát triển thành viêm gan C mãn tính.
Tuy nhiên, khoảng 50% người bị viêm gan C không biết rằng họ mắc bệnh.
Nguyên nhân lây truyền xảy ra do tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh, có thể xảy ra khi dùng chung kim tiêm, kiểm soát nhiễm trùng kém hoặc sinh con.
Viêm gan B và C có thể gây ra các triệu chứng tương tự ở cả giai đoạn nhiễm trùng cấp tính và mãn tính.
Các triệu chứng viêm gan B trong giai đoạn cấp tính thường xảy ra trong vòng 6 tháng kể từ khi tiếp xúc với virus ban đầu. Các triệu chứng này có thể bao gồm:
Nước tiểu màu vàng sẫm;
Mệt mỏi;
Sốt;
Đau khớp;
Buồn nôn;
Phân nhạt màu hoặc xám;
Nôn mửa;
Vàng da hoặc mắt.
Một số trẻ nhỏ bị viêm gan B không có triệu chứng.
Khoảng 15 đến 25% những người bị viêm gan B mắc bệnh gan mãn tính, có thể bao gồm tổn thương gan, xơ gan và ung thư gan.
Viêm gan C cấp tính có thể gây ra các triệu chứng giống như viêm gan B cấp tính. Tuy nhiên, viêm gan C có nhiều khả năng trở thành tình trạng mãn tính hơn viêm gan B.
Trong số những người bị viêm gan C mãn tính, CDC ước tính rằng 5 đến 20% sẽ phát triển thành xơ gan và khoảng 1-5% những người bị viêm gan C tử vong vì xơ gan hoặc ung thư gan.
Nhiều người có thể không nhận ra rằng họ bị viêm gan B hoặc C cho đến khi đi kiểm tra sức khỏe. Những trường hợp khác có thể có các triệu chứng cho thấy các vấn đề về gan, chẳng hạn như giữ nước, phân nhạt màu hoặc các vấn đề về xuất huyết.
Hiện không có cách chữa khỏi bệnh viêm gan B, nhưng việc theo dõi các triệu chứng của người bị nhiễm virus và khuyến nghị các phương pháp dự phòng có thể tăng cường sức khỏe của gan. Các khuyến nghị có thể bao gồm:
Hạn chế sử dụng các đồ uống có cồn;
Tránh các loại thuốc được thải loại qua gan, bao gồm các chất bổ sung và thảo dược.
Các phương pháp điều trị viêm gan B bổ sung sẽ phụ thuộc vào các triệu chứng cụ thể của từng người và tiên lượng biến chứng xảy ra.
Kể từ năm 2013, nhiều bệnh viện đã có thể kê đơn thuốc có thể điều trị viêm gan C ở hầu hết bệnh nhân. Các loại thuốc kháng virus này bao gồm ledipasvir/sofosbuvir (Harvoni) và daclatasvir (Daklinza).
Bác sĩ sẽ kê các loại thuốc khác nhau tùy thuộc vào kiểu gen hoặc biến thể của bệnh viêm gan C mà một người mắc phải. Thông thường cần phải dùng các loại thuốc này trong 12 đến 24 tuần.
Vaccine chủng ngừa này kích thích cơ thể tạo ra kháng thể hoặc tế bào miễn dịch có thể chống lại nhiễm trùng viêm gan B. Những người có nguy cơ tiếp xúc với viêm gan B, trẻ sơ sinh và những người bị nhiễm HIV nên chủng ngừa viêm gan B.
Không có vắc xin phòng bệnh viêm gan C. Tuy nhiên, một số biện pháp có thể giúp ngăn ngừa sự lây truyền của cả hai loại virus, bao gồm:
Không dùng chung kim tiêm;
Quan hệ tình dục an toàn, đặc biệt đối với người có bạn tình;
Nâng cao ý thức của nhân viên y tế trong khâu chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B, C;
Lựa chọn các cơ sở xăm hình an toàn;
Tránh dùng chung các vật dụng chăm sóc cá nhân như bàn chải đánh răng hoặc dao cạo râu.
Cả hai bệnh nhiễm trùng viêm gan B và C đều có thể gây ra những ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, viêm gan C dễ chuyển thành mãn tính hơn viêm gan B.
Viêm gan B có thể lây truyền qua các chất dịch cơ thể, trong khi việc lây truyền bệnh viêm gan C thường chỉ xảy ra khi tiếp xúc máu của người bệnh.
Hiện tại có thể điều trị viêm gan C mãn tính, có thể giảm nguy cơ lây truyền bệnh viêm gan B bằng cách chủng ngừa bệnh viêm gan B.
Nếu có các yếu tố nguy cơ của một trong hai dạng viêm gan, chẳng hạn như dùng chung kim tiêm, tiền sử quan hệ tình dục không an toàn nên nói chuyện với bác sĩ về việc xét nghiệm kiểm tra để có những chẩn đoán cũng như điều trị phù hợp.
Xem video BS tư vấn về viêm gan mạn tính
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh