Trên thế giới, carcinom tế bào gan ở nam giới nhiều gấp hai lần ở nữ giới và là nguyên nhân đứng hàng thứ ba trong số các trường hợp tử vong do ung thư. Thường gặp ở người tuổi ≥ 50. Mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 600.000 trường hợp mới carcinom tế bào gan. Tỷ lệ carcinom tế bào gan cao nhất là ở châu Á và châu Phi trong đó có nước ta, tại đây, các bệnh viêm gan B và C là những bệnh lưu hành rất phổ biến và là nguy cơ chính dẫn đến tỷ lệ cao của carcinom tế bào gan. Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, mỗi năm có thêm khoảng 15.000 nam và 6.000 nữ được chẩn đoán là carcinom tế bào gan.
Hình ảnh gan khỏe mạnh và gan bị ung thư (Nguồn: Internet).
Ung thư gan nguyên phát là các khối u ác tính được hình thành và phát triển từ các mô khác nhau của gan:
Ung thư biểu mô tế bào gan chiếm khoảng 90 – 95% ung thư gan nguyên phát ở người lớn.
Khi ung thư khởi phát ở đâu thì đó là ung thư nguyên phát. Khi có một vài tế bào tách ra từ ung thư nguyên phát, di chuyển đến một nơi nào khác và rồi có thể tạo ra một u mới khác thì đó là ung thư thứ phát hay còn gọi là ung thư di căn. Gan cũng là nơi bị di căn ung thư đến nhiều nhất từ các bộ phận hay các tạng khác của cơ thể, thường gặp nhất là từ đại tràng, phổi, hay vú. Các ung thư thứ phát này ở gan thực chất KHÔNG PHẢI LÀ UNG THƯ GAN, ung thư lúc đó mang tên của tạng đầu tiên bị ung thư, ví dụ ung thư đại tràng khi lan rộng lên gan thì được gọi là ung thư đại tràng di căn lên gan. Ở Hoa Kỳ, ung thư di căn lên gan gặp nhiều hơn nhiều so với ung thư gan nguyên phát.
Khả năng bị ung thư của một người phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và cả không di truyền. Yếu tố di truyền có đặc điểm là di truyền và không thể thay đổi, trong khi yếu tố không di truyền là một biến số của môi trường sống thường có thể thay đổi. Các yếu tố không di truyền có thể bao gồm chế độ dinh dưỡng, luyện tập hoặc sự phơi nhiễm với các chất khác hiện hữu chung quanh chúng ta.
Đa số các trường hợp HCC có thể quy cho các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, một số bệnh di truyền cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan.
Bệnh sử gia đình có ung thư gan: Trong một nghiên cứu của Hoa Kỳ, những người có bệnh sử gia đình độ I về ung thư gan liên quan đến các yếu tố di truyền trong môi trường (xảy ra cho bố mẹ, anh chị em ruột, hay con cái bị ung thư gan) sẽ bị ung thư gan nhiều hơn khoảng 4 lần so với những người không có bệnh sử gia đình như vậy.
Bệnh nhiễm sắc tố sắt di truyền: Là một bệnh trong đó cơ thể hấp thu và tích trữ quá nhiều sắt dư thừa ở gan. Bệnh này là một trong những bệnh thường gặp nhất ở Hoa Kỳ và gặp khi người đó thừa hưởng đột biến gen đặc hiệu từ cả cha lẫn mẹ có nguy cơ ung thư gan cao hơn.
Bệnh Wilson là một bệnh di truyền hiếm gặp, tích lũy nhiều đồng ở gan, não… cũng có nguy cơ ung thư gan cao. Khoảng 75% các trường hợp ung thư gan nguyên phát xảy ra trên nền xơ gan do nguyên nhân: viêm gan siêu vi C hay B (nguy cơ ung thư gan cao gấp 7 – 29 lần so với người không nhiễm và đặc biệt cao đến 65 – 95% khi đã có xơ gan), nghiện rượu kinh niên và ứ mật nguyên phát, do nhiễm sắc tố sắt, bệnh Wilson…
Nhiễm virut viêm gan B (HBV) mạn tính: Nhiễm HBV mạn tính chiếm trên một nửa số trường hợp ung thư gan trên toàn thế giới. HBV có thể lây qua tiếp xúc với máu người bệnh hay kim tiêm hoặc quan hệ tình dục với người bệnh, hoặc mẹ truyền cho con sơ sinh. Khả năng nhiễm HBV mạn tính thay đổi theo tuổi bị lây nhiễm và xảy ra cho khoảng 90% người bị nhiễm lúc còn là trẻ dưới 7 tuổi và 2 – 6% người bị nhiễm khi đã trưởng thành. Trong số người bị nhiễm mạn tính, có khoảng 15 – 25% sẽ tử vong sớm do xơ gan hoặc ung thư gan.
Nhiễm virut viêm gan C (HCV): Nhiễm HCV mạn tính là một yếu tố nguy cơ quan trọng khác của ung thư gan và người ta nghĩ rằng ung thư gan có tăng lên ít nhiều ở Hoa Kỳ trong mấy thập niên gần đây. Ở Bắc Mỹ, HCV gây ra số ca ung thư gan nhiều hơn HBV. Nguyên nhân lây nhiễm tương tự như với HBV.
Nghiện rượu nặng: Nghiện rượu nặng lâu dài làm tăng nguy cơ ung thư gan. Theo một đánh giá, dùng 6 – 7 liều uống mỗi ngày trong hơn 10 năm làm tăng nguy cơ ung thư gan lên hơn 5 lần.. Ở Hoa Kỳ, nghiện rượu nặng chiếm khoảng 1/3 tổng số ca HCC.
Bệnh đái tháo đường: Phân tích phối hợp các nghiên cứu đã công bố trước đây (đa số tập trung vào đái tháo đường týp II) cho thấy đái tháo đường đi đôi với tăng gấp đôi nguy cơ HCC. Tuy vậy, đái tháo đường cũng có thể là kết quả của các bệnh gan mạn tính.
Béo phì: Béo phì làm tăng nguy cơ một số loại ung thư gồm ung thư nội mạc tử cung, ung thư vú sau mãn kinh và ung thư đại tràng. Gần đây hơn, các nghiên cứu cho thấy béo phì cũng có thể làm tang nguy cơ ung thư gan. Sự phát triển của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có thể giải thích cho một số liên quan giữa béo phì và HCC.
Thuốc lá: Một phân tích tổng hợp cho thấy những người hút thuốc có khả năng sẽ bị ung thư gan nhiều hơn 56% so với những người không hút.
Độc tố aflatoxin B1: Đây là loại độc tố của nấm Aspergillus flavus có trong các loại ngũ cốc bị mốc như gạo, đậu phộng, bắp được xem là tác nhân quan trọng của ung thư gan ở các nước kém phát triển.
Vì nhiều trường hợp HCC có liên quan với nghiện rượu nặng hoặc với nhiễm HCV hay HBV mạn tính, việc kiểm soát các phơi nhiễm này là rất quan trọng cho phòng ngừa ung thư gan.
Tiêm chủng viêm gan b: Việc tiêm chủng thường qui cho trẻ em chống hbv được chỉ định ở hoa kỳ và nhiều nước khác. Cũng cần tiêm chủng cho các trẻ lớn và trẻ vị thành niên trước đó chưa được tiêm phòng và cho cả người lớn có nguy cơ nhiễm hbv.
Tránh hcv: Từ 1992, truyền máu ở hoa kỳ được kiểm tra loại trừ hcv nên đã giảm rất nhiều nguy cơ nhiễm do truyền máu. Cho đến nay, chưa có được vắc-xin chống hcv.
Hạn chế uống rượu: Khuyến cáo không dùng quá 2 đơn vị rượu mỗi ngày cho nam giới và quá 1 đơn vị cho phụ nữ. người bị viêm gan hay một bệnh khác của gan phải bỏ rượu hoàn toàn.
Điều trị tốt bệnh viêm gan mạn tính để hạn chế tiến trình dẫn đến xơ gan.
Phòng ngừa và điều trị bệnh gan nhiễm mỡ.
Tầm soát có nghĩa là sử dụng theo đúng lịch trình một số các khám, xét và thử nghiệm cho những trường hợp chưa có các triệu chứng ung thư, nhất là cho những người bị xơ gan.
Siêu âm: Siêu âm gan mỗi 6 – 12 tháng để phát hiện ung thư gan ở giai đoạn sớm nhất có thể được. Khi thấy một nhân phát triển ở gan, có thể làm thêm các thử nghiệm khác hoặc kiểm soát thường xuyên hơn để xác định chẩn đoán.
Thử Alpha-fetoprotein (AFP): Ung thư gan có thể làm tăng một protein có trong máu là AFP và thử AFP có thể sử dụng để tầm soát ung thư gan. Cần xét nghiệm AFP định kỳ mỗi 3 – 6 tháng cho những trường hợp viêm gan virut B hoặc C, xơ gan do bất cứ nguyên nhân nào, tiền căn gia đình có người bị ung thư gan. Tuy nhiên, AFP không phải là một chất chỉ điểm hoàn hảo cho ung thư gan và một số nhà nghiên cứu cho rằng thử AFP không nên xem là thử nghiệm duy nhất được sử dụng.
Nhiều kỹ thuật đang được nghiên cứu để cải thiện việc tầm soát và phát hiện sớm ung thư.
Dự báo nguy cơ ung thư gan: Mặc dù các yếu tố nguy cơ quan trọng của ung thư gan đã được xác định (như nhiễm HBV hay HCV mạn tính), nhưng vẫn có nhiều trường hợp có các yếu tố nguy cơ này mà không bao giờ trở thành ung thư gan. Do đó, các nhà nghiên cứu đang cố gắng để tìm hiểu vì sao có các nhóm người bệnh bị bệnh gan mạn tính phát triển thành ung thư gan mà các nhóm khác thì không. Trả lời được câu hỏi này sẽ giúp cải thiện hiểu biết của chúng ta về sự phát triển của ung thư gan. Ví dụ, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã lập ra một bảng tính điểm các yếu tố nguy cơ độc lập nhằm giúp dự báo nguy cơ phát triển ung thư gan sau 5 năm và 8 năm kể từ ngày đến khám của những người bị nhiễm HBV mạn tính: nam giới, tuổi tăng cao, mức độ HBV DNA cao hơn các đột biến gen của HBV và đã có xơ gan.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh