Một số khối u ruột thừa là lành tính. Các khối u ác tính có thể xâm lấn và có thể lây lan sang các cơ quan khác. Khối u ruột thừa có thể thuộc các loại sau đây:
Ung thư ruột thừa thường không gây ra triệu chứng ở giai đoạn đầu. Bác sĩ thường chỉ chẩn đoán lần đầu những người mắc bệnh này ở giai đoạn sau khi bắt đầu gây ra các triệu chứng hoặc lan sang các cơ quan khác. Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư ruột thừa thường phụ thuộc vào ảnh hưởng của khối u:
Một số loại khối u ruột thừa có thể gây ra Pseudomyxoma peritonei - xảy ra khi vỡ ruột thừa và các tế bào khối u bị phân tán vào khoang bụng. Các tế bào khối u tiết ra một loại protein gọi là mucin có thể tích tụ trong khoang bụng và tiếp tục lan rộng.
U nang niêm mạc của ruột thừa có thể gây ra Pseudomyxoma peritonei. Pseudomyxoma peritonei có thể hình thành do các tế bào ung thư phát tán vào khoang bụng. Nếu không điều trị, sự tích tụ này có thể dẫn đến các tình trạng xấu ở ống tiêu hóa và tắc nghẽn đường ruột. Các triệu chứng Pseudomyxoma peritonei bao gồm:
Đau bụng từng cơn
Chướng bụng, chán ăn
Cảm thấy no sau khi ăn chỉ một lượng nhỏ thức ăn
Buồn nôn hoặc nôn
Táo bón hoặc tiêu chảy
Thoát vị bẹn, có chứa dịch và phổ biến hơn ở nam giới.
Viêm ruột thừa có thể là dấu hiệu đầu tiên của ung thư ruột thừa do một số khối u ruột thừa có thể làm tắc ruột thừa dẫn đến vi khuẩn đường ruột bị mắc kẹt và phát triển quá mức bên trong ruột thừa.
Phương pháp điều trị phổ biến nhất cho viêm ruột thừa là phẫu thuật khẩn cấp để cắt ruột thừa. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa, sinh thiết mô có thể khẳng định ung thư ruột thừa hay không.
Không phải tất cả các loại ung thư ruột thừa đều gây ra viêm ruột thừa. Ví dụ, phần lớn các khối u thần kinh hình thành ở đầu ruột thừa, vì vậy không có khả năng gây tắc nghẽn gây ra viêm ruột thừa.
Cũng cần lưu ý rằng nhiều người bị viêm ruột thừa không bị ung thư ruột thừa. Các yếu tố khác, chẳng hạn như chấn thương bụng và bệnh viêm ruột có thể gây viêm ruột thừa. Nhiều trường hợp viêm ruột thừa không rõ nguyên nhân.
Trong một số trường hợp ung thư ruột thừa có thể phát hiện khi xuất hiện khối cứng ở vùng bụng hoặc vùng chậu. Bệnh nhân cũng có thể bị đau hoặc chướng bụng. Ở nữ giới, ung thư ruột thừa có thể bị nhầm lẫn với ung thư buồng trứng.
Nếu ung thư ruột thừa là ác tính, các tế bào ung thư có thể phát triển trên bề mặt của các cơ quan vùng bụng khác và niêm mạc khoang bụng. Sự tiến triển này được gọi là ung thư biểu mô phúc mạc. Nếu không được điều trị có thể mất chức năng của ruột hoặc tắc ruột. Ung thư ruột thừa ác tính phổ biến nhất là phát triển trên bề mặt của:
Gan
Lá lách
Buồng trứng
Tử cung
Niêm mạc của khoang bụng hoặc màng bụng
Thông thường, ung thư ruột thừa không lan đến các cơ quan bên ngoài khoang bụng ngoại trừ ung thư biểu mô tế bào nhẫn.
Chưa biết chính xác nguyên nhân gây ung thư ruột thừa. Các thống kê cho thấy rằng hầu hết ung thư ruột thừa ảnh hưởng đến hai giới như nhau. Đa số các bệnh nhân được chẩn đoán chúng ung thư ruột thừa từ 40 đến 59 tuổi.
Nhiều trường hợp, ung thư ruột thừa được chẩn đoán sau khi đã phẫu thuật viêm ruột thừa hoặc khi khối u lan sang các cơ quan khác gây ra các triệu chứng rõ rệt.
Rất khó xác định loại ung thư ruột thừa bằng chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, MRI hoặc CT scan. Tương tự, xét nghiệm máu không phải là một chỉ số đáng tin cậy để chẩn đoán ung thư ruột thừa.
Thông thường, Chẩn đoán xác định một người bị ung thư ruột thừa sau khi lấy sinh thiết khối u.
Bác sĩ sẽ xác định phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân ung thư ruột thừa dựa trên một số yếu tố bao gồm:
Loại khối u
Vị trí ung thư có lây lan
Sức khỏe tổng quan của bệnh nhân.
Nếu ung thư chưa lan rộng ra khỏi ruột thừa bệnh nhân có thể chỉ cần phải phẫu thuật. Trường hợp có lan sang các cơ quan khác, bác sĩ phẫu thuật có thể cắt bỏ luôn các cơ quan bị ảnh hưởng. Các cơ quan này có thể bao gồm một phần của ruột, buồng trứng hoặc phúc mạc.
Các chuyên gia cho biết rằng hầu hết bệnh nhân cần phẫu thuật loại bỏ ruột thừa và nửa bên phải của đại tràng, đặc biệt là nếu khối u lớn hơn 2 cm.
Một số bệnh nhân có thể cần thực hiện hóa trị sau khi phẫu thuật để loại bỏ các tế bào ung thư.
Hóa trị trong siêu âm qua màng bụng là một loại trị liệu tăng thân nhiệt được sử dụng kết hợp với phẫu thuật trong điều trị ung thư vùng bụng tiến triển. Trong thủ tục này, thuốc chống ung thư được làm ấm được truyền và lưu thông trong khoang màng bụng khoảng 1,5 giờ. Hóa trị trong siêu âm qua màng bụng được tiến hành sau khi cắt bỏ ruột thừa và các vùng lây lan ung thư có thể nhìn thấy.
Tỷ lệ sống sót đối với bệnh nhân mắc ung thư ruột thừa thay đổi tùy thuộc vào loại khối u, kích thước và tình trạng di căn.
Theo Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ, tỷ lệ sống sót ước tính sau 5 năm đối với các khối u thần kinh nội tiết của ruột thừa là:
Gần 100% nếu khối u < 3 cm và không lan rộng.
Khoảng 78% nếu khối u < 3 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết khu vực.
Khoảng 78% nếu khối u lớn hơn 3 cm và chưa lan đến các bộ phận khác của cơ thể.
Khoảng 32% nếu ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ người mắc ung thư biểu mô tế bào đài sống được trong 5 năm hoặc lâu hơn từ khi chẩn đoán là khoảng 76%.
Ung thư ruột thừa là cực kỳ hiếm và thường không có triệu chứng trong giai đoạn đầu. Thông thường, ung thư ruột thừa chỉ chẩn đoán khi đã ở các giai đoạn bắt đầu lây lan sang các cơ quan khác hay được chẩn đoán tình cờ khi điều trị viêm ruột thừa hoặc đánh giá một tình trạng bệnh lý vùng bụng chậu khác.
Bởi vì rất hiếm, nên nhiều nghiên cứu về ung thư ruột thừa chưa thật sự rõ ràng. Ung thư ruột thừa có thể điều trị được và thực tế nhiều người có kết quả điều trị tốt với sự hỗ trợ từ nền y tế kỹ thuật cao.
Bệnh nhân có thể tham khảo ý kiến của bác sĩ để lựa chọn các phương pháp điều trị và tiên lượng tổng quan sức khỏe của bản thân.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh