Phim X quang bụng từ lâu đã có vai trò quan trọng trong đánh giá các trường hợp cấp cứu đau bụng. Hiện nay có nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến như siêu âm, phim cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ, nhưng chụp phim X quang bụng vẫn là một trong những chỉ định được yêu cầu nhiều nhất trong cấp cứu bụng.
Mặc dù các phim X quang bụng nói chung có hiệu quả thấp và phần lớn cho một mẫu hình phân bố khí không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, một số mẫu hình khí có thể cho phép chẩn đoán cụ thể và do đó ảnh hưởng đến quản lý bệnh nhân. Những mẫu hình khí đặc biệt đó thường tinh vi và có thể bị bỏ qua nếu không được cân nhắc khi đọc phim X quang bụng.
Mục tiêu của bài tổng hợp này nhằm diễn tả việc đánh giá phim X quang bụng và các mẫu hình khí, phân bố khí trong ổ bụng, phân nhóm vị trí khí ở trong hoặc ngoài tạng rỗng. Các tác giả sẽ (a) minh họa một loạt mức độ chẩn đoán từ phim X quang để từ đó hướng dẫn quản lý tiếp theo, đặc biệt sử dụng đúng lúc và hợp lý siêu âm và cắt lớp vi tính, (b) bàn luận các vấn đề lâm sàng thường gặp đối với phim X quang bụng, (c) diễn tả vai trò của các kỹ thuật tiên tiến hơn.
Diễn giải (đọc) phim X quang bụng bao gồm đánh giá khí, dịch, mô mềm, mỡ và mật độ vôi hóa của cơ thể hay dị vật. Ở đây tập trung vào phân tích các mẫu hình khí. Khí bình thường trong ổ bụng chủ yếu do nuốt.
Khí trong dạ dày thường được nhìn thấy với mức khí-dịch thay đổi theo từng bệnh nhân. Khí ruột non thường là các ổ nhỏ, nhiều, phân bố rải rác khắp ổ bụng. Khí ruột non tăng lên khi bệnh nhân uống nhiều đồ uống có ga (carbonate), nuốt khí kéo dài. Bình thường có ít khí ở ba hoặc bốn quai ruột non và khí khuôn theo hình các quai ruột đó.
Thường có thể phân biệt được ruột non giãn và đại tràng trên phim X quang bụng thường quy. Các điểm máu chốt bao gồm sự phân bố các quai ruột – ruột non thường nằm ở trung tâm và đại tràng nằm ở ngoại vi. Sự sắp xếp này được gọi là “ảnh trong khung”- ruột non là “ảnh” ở trung tâm và đại tràng là “khung” bao quanh. Các kiểu nếp gấp trong lòng cũng khác nhau giữa ruột non và đại tràng. Các nếp ở ruột non gọi là nếp vòng (valvulae conniventes) chạy vòng quanh chu vi ruột, đại tràng có các nếp gọi là ngấn (haustra) chỉ kéo dài một phần chu vi lòng ruột (thường khoảng 1/3 chu vi). Đại tràng thường có hình lốm đốm trong lòng do cặn phân lẫn khí.
Ruột non giãn khi đường kính ngang hồi tràng (ở đoạn cuối) trên 25 mm và hỗng tràng (đoạn gần) trên 30 mm. Bình thường hay có các mức khí-dịch trong ruột non nhưng chân (chiều rộng mức khí-dịch) không rộng hơn 25 mm. Đường kính manh tràng không vượt quá 80 mm, đường kính phần còn lại của đại tràng không quá 55 mm. Mức khí – dịch trong đại tràng không vượt quá góc gan.
Phân tích hình mẫu khí trong lòng ống bao gồm việc đánh giá hình mẫu khí trong lòng dạ dày, ruột và các cấu trúc ống khác như túi mật, tĩnh mạch cửa và bàng quang, đánh giá sự dịch chuyển của khí ruột do bệnh lý trong ổ bụng đè đẩy.
Tắc ruột non. Nhiều quai ruột non giãn, chứa đầy khí
Trên phim X quang bụng, khí ở bên ngoài lòng ruột là bất thường, vị trí phổ biến nhất là khoang trong màng bụng (phúc mạc). Một số dấu hiệu của khí tự do phát hiện được trên phim X quang bụng, những dấu hiệu hay được nhắc đến là khí dưới vòm hoành và dấu hiệu Rigler. Khí tự do ở sau phúc mạc có phân bố khác với khí trong ổ bụng. Khí cũng có thể nhìn thấy ở thành của tạng (khí trong thành), trong ổ áp xe hoặc tụ sâu trong ổ bụng hoặc ở thành bụng.
Các dấu hiệu của tràn khí ổ bụng (a) Dấu hiệu Rigler biểu hiện khí ở trong và ngoài thành ruột (b) Chụp X quang bụng nằm nghiêng trái chứng minh có ít khí tự do tụ trong ổ bụng.