NGUYÊN LÝ
SCCA là một mảnh vỡ của T-4, một kháng nguyên ung thư được mô tả đầu tiên bởi Kato và Torigoe vào năm 1977. TA-4 là một glycoprotein với trọng lượng phân tử 48.000 Dalton được tiết ra từ các mô ung thư biểu mô tế bào vảy ở cổ tử cung.
Xét nghiệm SCC (kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy) là xét nghiệm miễn dịch hai bước sử dụng phép phân tích Miễn dịch Vi hạt hóa phát quang CMI (Chemiluminescent Microparticle Immuno Ssay) với quy trình xét nghiệm linh hoạt để định lượng kháng nguyên SCC trong huyết thanh và huyết tương người. Ở bước một: Kháng nguyên SCC có trong mẫu thử gắn với kháng thể kháng SCC được phủ lên các vi hạt. Sau khi rửa kháng thể kháng SCC có đánh dấu acridinium được thêm vào ở bước hai. Tiếp theo một quá trình rửa khác, cho dung dịch Pre-Trigger và Trigger vào hỗn hợp phản ứng. Kết quả của phản ứng hóa phát quang được tính bằng đơn vị ánh sáng (RLUs). Sự tương quan thuận giữa lượng kháng nguyên SCC trong mẫu và RLUs sẽ được bộ phận quang học trong máy RCHITECT phát hiện.
CHUẨN BỊ
Người thực hiện:
Bác sĩ và cử nhân xét nghiệm được đào tạo vận hành máy Architect.
Phương tiện, hóa chất:
Phương tiện:
Máy Architect ir1000, ir 2000.
Ống nghiệm có chất chống đông (Potassium EDT, sodium heparin, sodium EDT), ống không có chất chống đông.
Hóa chất:
Bộ thuốc thử, 100 test RCHITECT SCC.
Các vi hạt: 1 chai (6.6ml) các vi hạt: Kháng thể với các vi hạt phủ kháng nguyên SCC (kháng thể đơn dòng từ chuột) trong đệm MES có chất ổn định protein (bò).
Chất kết hợp: 1 chai (5.9 ml) chất kết hợp: kháng thể được đánh dấu Acridinium với kháng nguyên SCC (chuột, đơn dòng) kết hợp trong đệm MES có chất ổn định protein (bò).
Người bệnh:
Người bệnh bị ung thư cổ tử cung.
Phiếu xét nghiệm:
Thống nhất theo mẫu quy định của bệnh viện.
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
Lấy bệnh phẩm 2.1.1. Loại mẫu:
Huyết thanh (ống không có chất chống đông).
Huyết tương (potassium EDT, sodium sodium heparin, sodium EDTA).
Các chất chống đông lỏng có thể gây pha loãng dẫn đến làm nồng độ mẫu người bệnh thấp.
Điều kiện mẫu:
Không sử dụng các mẫu sau: Bị bất hoạt do nhiệt, bị tán huyết (> 500 mg/dL), có thể thấy nhiễm khuẩn, mẫu lấy từ tử thi hay các dịch cơ thể khác.
Để có kết quả xác thực: Mẫu huyết thanh và huyết tương không nên có fibrin, hồng cầu hay các vật thể lạ khác. Nếu mẫu được ly tâm trước khi quá trình hình thành cục máu đông kết thúc hoàn toàn thì sự hiện diện của fibrin có thể gây ra sai số trong kết quả Đối với những mẫu mới rã đông khuyến cáo chuyển mẫu sang ống ly tâm và ly tâm ở ≥ 10.000 RCF (Relative Centrifugal Force) trong 10 phút trước khi xét nghiệm. Sau đó hút phần dịch trong sang cup đựng mẫu để chạy xét nghiệm.
Để có kết quả tối ưu, cần kiểm tra bọt khí trong mẫu bằng mắt. Loại bỏ bọt khí trước khi xét nghiệm. Mỗi xét nghiệm dùng một que riêng để tránh nhiễm chéo.
Bảo quản:
Mẫu để sau 24 giờ nên tách huyết thanh hay huyết tương để bảo quản 7 ngày ở nhiệt độ 2-8°C. Nếu thực hiện xét nghiệm sau 7 ngày phải bảo quản đông lạnh ≤ -20°C.
Tiến hành kỹ thuật:
Lắc đảo ngược chai vi hạt 30 lần để phân tán các vi hạt có thể bị lắng trong quá trình vận chuyển. Nạp bộ thuốc thử RCHITECT SCC vào máy Rchitect.
Kiểm tra để chắc rằng có đủ tất cả thuốc thử cần thiết cho xét nghiệm.
Đảm bảo rằng các chai thuốc thử đã mở nắp đều có màng ngăn đậy lại.
Tiến hành hiệu chuẩn nếu cần.
Chuẩn bị mẫu chuẩn và mẫu chứng.
Lắc trộn chai đựng mẫu chuẩn và mẫu kiểm tra chất lượng SCC RCHITECT nhẹ nhàng trước khi sử dụng.
Yêu cầu về lượng mẫu của mẫu chuẩn và mẫu kiểm tra chất lượng RCHITECT SCCA, giữ chai theo chiều thẳng đứng và nhỏ 5 giọt cho mỗi mẫu chuẩn hay 4 giọt của mỗi mẫu kiểm tra chất lượng vào từng cúp đựng mẫu tương ứng.
Khoảng hiệu chuẩn: 0-70 ng/mL. Khi đường cong chuẩn RCHITECT SCC được chấp nhận và lưu lại, không cần thực hiện hiệu chuẩn cho tất cả các mẫu xét nghiệm sau đó, trừ khi:
Sử dụng lô thuốc thử mới.
Mẫu kiểm tra chất lượng cho kết quả nằm ngoài giới hạn.
Nạp mẫu và nhấn nút RUN.
Quy trình pha loãng mẫu: Mẫu với nồng độ SCC > 70 ng/mL có thể pha loãng bằng tay theo tỉ lệ 1:10 (20 µL mẫu + 180 µL SCCA Calibrators A).
NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ
Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư sinh dục nữ hay gặp nhất trên phạm vi toàn cầu.
Khoảng 80% đến 90% ung thư cổ tử cung là ung thư tế bào vảy. Sự thay đổi nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) cũng tỷ lệ với tiến trình của bệnh. Do vậy định lượng nồng độ kháng nguyên này rất hữu ích trong việc chẩn đoán, theo dõi điều trị bệnh.
Bình thường:
Nồng độ SCC <1,5 ng/mL.
Giới hạn đo của máy:
Từ 0,1ng/mL đến 70 ng/mL 3.
Bệnh lý:
Nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) tăng trong các khối u ác tính tế bào vảy khác như khối u ở phổi, thực quản, đầu và cổ, ống hậu môn và da.
Trong ung thư biểu mô tế bào vảy ở cổ tử cung, nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy (SCCA) huyết thanh tăng gặp ở 45-83% số người bệnh ung thư cổ tử cung biểu mô tế bào vảy và ở 66-84% ung thư cổ tử cung tế bào vảy tái phát. Sự tăng nồng độ SCCA tỷ lệ với mức độ nặng của ung thư cổ tử cung tế bào vảy. Các người bệnh ung thư có nồng độ SCC tăng trở lại sau phẫu thuật 2-6 tuần có tỷ lệ tái phát 92%. Nồng độ SCC có liên quan đến sự tái phát khối u và tiên lượng của bệnh.
NHỮNG SAI SÓT VÀ XỬ TRÍ
Nếu kết quả nồng độ SCC không phù hợp với lâm sàng cần làm thêm các xét nghiệm khác để khẳng định kết quả. Muốn có chẩn đoán chính xác cần kết hợp với triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm khác.
Không nên sử dụng xét nghiệm nồng độ SCC như một xét nghiệm sàng lọc ung thư.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh