Khuẩn Mycobacterium tuberculosis là nguyên nhân gây nên bệnh lao ở người, đây là căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có thể lây lan dễ dàng thông qua đường hô hấp. Người bị lao khi ho hoặc hắt hơi sẽ phát tán vi khuẩn ra ngoài không khí, người bình thường nếu tiếp xúc phải sẽ bị nhiễm bệnh. Thời gian đầu sau khi khuẩn lao xâm nhập vào, cơ thể chưa có biểu hiện rõ ràng, đây gọi là thời kỳ ủ bệnh.
Quãng thời gian ủ bệnh dài hay ngắn phụ thuộc vào sức đề kháng của mỗi bệnh nhân.
Khi hệ miễn dịch của con người suy giảm là cơ hội tốt để khuẩn lao sinh sôi phát triển và tấn công cơ thể người, lúc này bệnh nhân mới có những biểu hiện và triệu chứng cụ thể.
Đây là kỹ thuật ứng dụng sinh học phân tử mang tính đột phá đối với nền y tế thế giới nói chung và chẩn đoán bệnh lao nói riêng. Phương pháp này cho phép xác định được vi khuẩn lao với độ đặc hiệu và độ nhạy rất cao.
Do sử dụng hệ thống máy móc hiện đại nên xét nghiệm có thực hiện hết sức đơn giản, trả kết quả trong thời gian nhanh chóng và cho kết quả kép. Ngoài việc chẩn đoán có nhiễm lao hay không, xét nghiệm này còn cho biết có nhiều hay ít vi khuẩn. Đặc biệt, bệnh nhân có thuộc dạng lao kháng thuốc hay không (Rifamycin).
Xét nghiệm cho kết quả trực tiếp với mẫu bệnh phẩm là đờm AFB có độ nhạy lần lượt là:
Thời gian trả xét nghiệm chỉ khoảng 2 tiếng, việc này có lợi ích rất lớn trong việc chẩn đoán sớm bệnh lao và lao kháng thuốc. Khi phát hiện và điều trị sớm thì khả năng khỏi bệnh cao hơn và hạn chế tối đa sự lây lan ra cộng đồng.
Phương pháp xét nghiệm này đã được tổ chức y tế thế giới WHO chứng thực và được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia.
Khuyến cáo sử dụng xét nghiệm này trong công tác phòng chống lao như sau:
Mẫu bệnh phẩm dùng để xét nghiệm là đờm. Bệnh nhân tiến hành hít thở sâu từ 2 đến 3 lần, mở cốc đựng đờm vô khuẩn đưa gần miệng để lấy mẫu. Sau khi lấy mẫu xong thì vặn chặt lọ đựng rồi chuyển đến khu vực làm xét nghiệm càng nhanh càng tốt.
Mẫu đờm đạt chất lượng phải được khạc từ sâu trong phổi, có dung tích trên 2ml. Tuyệt đối lưu ý chỉ lấy đờm, nếu bệnh nhân đưa mẫu nước bọt thì sẽ phải thực hiện lấy mẫu bệnh phẩm lại.
Kỹ thuật dựa trên 3 công nghệ chính như sau:
Mẫu bệnh phẩm sau xử lý được cho vào hệ thống máy và được thực hiện hoàn toàn tự động trong một chu trình khép kín. Thời gian cho kết quả nhanh chóng, chỉ trong vòng 2h, không như các phương pháp sinh học phân tử khác.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh