TÂM VÀ TIỂU TRƯỜNG
Chức năng chủ yếu của tâm.
Tâm chủ huyết mạch và chủ về thần chí vì thế phản ứng bệnh lý trên lâm sàng thường cũng biểu hiện chủ yếu ở hai mặt “thần chí và huyết mạch” Trên lâm sàng triệu chứng huyết mạch thường là: tâm dương hư, tâm âm hư và tâm huyết ứ trệ… biểu hiện triệu chứng của thần chí là: đam mê tâm khẩu và đàm hoả nội bế…
Triệu chứng thường thấy ở tiêu trường là: ” tâm đa nhiệt vụ tiểu trường”: dẫn đến nhiệt nhập tâm bào thuộc phạm vị bệnh “ôn nhiệt” (sẽ mô tả ở phần sau).
Tâm dương bất túc.
Bao gồm: tâm khí hư, tâm dương hư, tâm dương hư thoát đều có triệu chứng chủ yếu là: hồi hộp, đoản khí (khi gắng sức tăng lên), tự hãn, lưỡi nhợt, rêu trắng.
Thiên về tâm khí hư kèm theo gầy gò vô lực, sắc mặt trắng nhợt hay thở dài (hỷ xuất trướng khí) lưỡi mềm, bệu, mạch hư.
Thiên về tâm dương hư: kèm theo tứ chi lạnh, vùng tim đầy tức, đau, mạch tế nhược hoặc kết đại.
Tâm dương hư thoái: kèm theo ra mồ hôi nhiều, tứ chi quyết lạnh, miệng môi xanh tím, thở yếu, thậm chí hôn mê, mạch vị muốn tuyệt (ảnh hưởng đến thần chí)
Pháp trị: tâm khí hư phải bổ tâm khí, an thần, có thể dùng bổ khí: tứ quân tử thang gia toan táo nhân, viễn chí, ngũ vị tử.
Tâm dương hư phải thông tâm dương, dùng qua lâu giới bạch quế chi thang.
(Qua lâu giới bạch tửu thang, qua lâu giới bạch bán hạ thang, qua lâu giới bạch quế chi thang chỉ thực)
Tâm âm bất túc (thực chất là tâm nhiệt)
Trên lâm sàng thường có hai hội chứng.
Hội chứng tâm nhiệt: hội chứng nhiễm trùng.
Nói lảm nhảm
Tâm phiền trằn trọc khó ngủ, ít ngủ
Mặt đỏ, mắt đỏ, khát nước.
Mũi chảy máu cam
Tiểu tiện vàng đỏ
Lưỡi đỏ, mạch sác
Phương pháp điều trị: thanh tâm lợi niệu; hoàng liên, mộc thông, sa tiền tử (bài thuốc được dùng trong các chứng tâm thần; ảo giác, ảo thính, hoang tưởng).
Tâm hư:
Hồi hôp, lo sợ, hay quên
Ngủ không say, hay mê, sợ hãi, mê vui vẻ
Di mộng tinh, đau vùng trước tim.
Tự đổ mồ hôi, từ hãn hoặc ra mồ hôi trộm (đạo hãn)
Chất lưỡi nhợt nhạt
Mạch tế nhược
Điều trị: ôn tâm dương; nhục quế, hắc phụ tử, phá cố chỉ…
HỘI CHỨNG TIỂU TRƯỜNG
Trên thực tế lâm sàng ít thấy hội chứng tiểu trường riêng mà thường nằm trong hội chứng tỳ vị hư hàn.
PHẾ VÀ ĐẠI TRÀNG
Chức năng sinh lý của phế là chủ khí, chủ hóa giáng, khi biến đổi bệnh lý phần nhiều là bệnh hệ thống hô hấp.
Bệnh đại trường thường thấy là đại trường thấp nhiệt.
Đàm trọc trở phế (đàm ẩm phạm phế)
Triệu chứng chủ yếu:
Khái thấu khí suyễn
Trong họng có đàm
Đàm dính mà nhiều
Ngực sườn đầy tức
Đau không nằm ngửa được.
Rêu lưỡi trơn nhớt, mạch hoạt, nếu kèm theo hàn có triệu chứng phế hàn và kèm theo nhiệt có triệu chứng phế nhiệt.
Đàm trọc trở phế, phế khí không thông, xuất hiện khí suyễn, đàm dính đặc và nhiều. Ngực sườn đau tức không nằm ngửa được.
Rêu lưỡi trơn nhớt, mạch hoạt là chứng hậu của đàm kiêm hàn, đàm lỏng mà nhiều bọt, lưỡi nhợt, rêu nhờn, mạch hoạt hoãn, nếu kèm theo nhiệt thì có đàm nhiều, đặc, vàng có phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng mạch hoạt sác.
Pháp điều trị: tả phế trục đàm
Thường dùng bài thuốc: đình lịch đại táo tả phế thang hoặc bài thuốc tam tử bình suyễn thang gia giảm, ngoài ra còn căn cứ vào triệu chứng có kiêm hàn hay kiêm nhiệt mà gia giảm.
Liên hệ với y học hiện đại hay gặp trong.
Phế hàn khái suyễn.
Triệu chứng: ho kịch liệt, khó thở, đờm dính trắng nhiều hoặc đờm lỏng khó khạc, nặng ho tức ngực khó nằm yên hoặc kèm theo phát sốt, sợ lạnh, rêu trắng nhuận, mạch khẩn hoặc phù khẩn. Do phế có hàn tà hoặc hàn đàm. Phế khí bất năng tiềm giáng làm cho khái thấu đa đàm, nặng hơn đau ngực, khó thở, không nằm ngửa được, do hàn tà tất sẽ kèm theo phát sốt, sợ rét, rêu trắng nhuận, mạch khẩn đó là hình mạch và lưỡi của hàn chứng.
Pháp điều trị: ôn phế trừ hàn, trục đàm dùng bài thuốc tiếu thanh long thang gia vị bài thuốc còn được dùng trong các bệnh theo y học hiện đại, bao gồm: viêm phế quản cấp mãn tính, viêm phế quản thể hen, hen phế quản. Do hàn tà dùng tiểu thanh long thang, nếu do phế khí thũng mà đàm nhiều nội trở (chủ yếu là đàm nhiều) phải dùng thuốc linh quế truật thảo thang gia giảm. Nếu khó thở phải dùng bài thuốc tiểu thanh long thang hoặc bài thuốc tam ảo thang gia địa long, bán hạ để trừ đàm định suyễn.
Phế nhiệt khái suyễn
Triệu chứng:
Ho, thở gấp
Đờm vàng, đặc dính
Hoặc đàm ho có máu
Khí vị tanh, đau họng, đau ngực, sợ lạnh, phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch sác hoặc hoạt sác.
Biện chứng bệnh lý: phế nhiệt khái thấu là phế có thực nhiệt, đàm nhiệt quánh làm phế khí không tuyên thông gây khái suyễn (ho khó thở). Nếu đàm nhiệt hở tắc mạch phế không thông thấy ngực đầy tức, hoặc nhiệt thịnh huyết ứ có thể nôn ra máu, thường sợ lạnh phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch sác hoặc hoạt sác là chứng thực nhiệt.
Pháp điều trị: thanh phế hóa đàm, chỉ khái bình suyễn dùng bài thuốc ma thạch cam thang. Có thể dùng thêm thuốc trừ đàm bài nùng (tiêu mủ).
Ví dụ: triết bối mẫu, chế xuyên sơn giáp, tạo giác thích, bồ công anh, ngư tinh thảo…
Liên hệ với y học hiện đại: viêm phế quản cấp và mãn tính, bài thuốc còn được chỉ định hen phế quản cấp và triệu chứng phế nhiệt. Dùng bài ma hạnh thạch cam thang gia giảm. Nếu như lưỡi hồng, rêu vàng mà khô, thân nhiệt tăng về chiều là phế nhiệt thương tâm, phải dùng bài tả bạch tán gia giảm. (Nếu khó thở gia ma hoàng, khổ hạnh nhân. Ho nhiều gia triết bối mẫu, qua lâu). Trong thời kỳ đầu của phế viêm thuộc chứng phế nhiệt cơ thể dùng ma hạnh thạch cam thang hợp với bài thuốc phượng vĩ kinh thang thêm ngũ tinh thảo nếu giãn phế quản là thuộc chứng phế nhiệt gia thêm bách bộ bạch cập.
Phế khí hư
Khái thấu khí đoản nặng, khó thở
Đàm nhiều xanh lỏng, mệt mỏi, nói nhỏ yếu
Sợ lạnh, tự hãn, sắc mặt trắng sáng
Lưỡi nhợt mềm, bệu mạch hư hoặc nhược nếu kèm theo đau ngực, hai bên lưỡi có ban điểm ứ huyết là khí hư huyết ứ.
Phế khí hư: khí bất túc làm ho khí đoản, âm thanh nhỏ nhẹ, yếu, khí hư tất sinh đàm, đàm nhiều trong lỏng. Phế khí bất túc bì mao sơ hở mà có sợ lạnh, tự hãn, chất lưỡi nhợt mềm, bệu, mạch nhược là triệu chứng của hư, sắc mặt trắng sáng là phế khí bất túc.
Pháp điều trị: ích phế trừ đàm thường dùng các thuốc: hoàng kỳ, ngũ vị tử, bán hạ, quất hồng, đẳng sâm, tử uyển, hải nhũ thạch, trích thảo… nếu phế khí hư kèm theo huyết ứ phải dùng thêm thuốc hoạt huyết tiêu ứ như tam lăng, nga truật. Nếu trong đàm có máu gia thêm bách thảo sương hoặc huyết dư cháy để chỉ huyết.
Liên hệ với y học hiện đại: phế khí hư hay gặp trong viêm phế quản mãn tính, lao phổi, khí phế thũng nếu bệnh nhân hen phế quản phải dùng thêm thuốc bổ khí kiện tỳ ích phế bổ thận
Phế âm hư (âm hư phế táo)
Triệu chứng:
Khái thấu vô đàm hoặc ít (ho khan không có đàm)
Đàm ít mà dính, có khi có máu
Triều nhiệt, đạo hãn, tự hãn
Thủ túc tâm nhiệt (lòng bàn tay, lòng bàn chân nóng)
Gò má đỏ, mất ngủ, miệng khô, họng ráo
Nói nhỏ, yếu, lưỡi mềm bệu, chất hồng
Rêu ít, mạch tế sác
Phế âm hư: tân dịch không đầy đủ dẫn đến khái thấu vô đàm hoặc đàm ít mà dính. Tân dịch không đủ để nhuận dưỡng mạch phế, nên khi ho làm cho đàm có máu âm hư sinh nội nhiệt; nên triều nhiệt thủ túc tâm nhiệt, miệng khô, họng ráo, âm hư thủy bất chế hoả, nội hoả long động bức tân dịch tiết ra ngoài mà sinh tự hãn. Tâm thần không yên mà sinh mất ngủ, lưỡi mềm hồng, ít rêu, mạch tế sác. Âm hư kèm theo gò má đỏ là triệu chứng thường thấy ở phế âm hư.
Pháp điều trị: tư âm dưỡng phế
Bài thuốc: bạch hợp cổ kim thang gia giảm. Nếu giãn phế quản phải dùng thêm; bách bộ, bách hợp. bạch cập, ngũ vị tử, hải nhũ thạch, chỉ sác…
Phế tỳ lưỡng hư, phế thận lưỡng hư.
Phế tỳ lưỡng hư (tỳ phế khí hư)
Thuộc về khí hư:
Ho lâu ngày
Đàm nhiều xanh lỏng
Sắc mặt xanh nhợt, mệt mỏi, gầy gò, vô lực.
Ăn uống kém
Bụng chướng, đại tiện lỏng, nát, lưỡi mềm mỏng, sắc nhợt, rêu trắng, mạch tế hư đại.
Phế thận lưỡng hư
Phần nhiều thuộc âm hư:
Khái thấu đàm thiểu (ít)
Vận động thì khí đoản “động tắc khí đoản”
Mặt trắng, gò má đỏ
Triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt
Gầy gò, mất ngủ, tự hãn, khô miệng
Đau lưng, di tinh
Lưỡi hồng, rêu ít, mạch tế sác.
Phế tỳ, thận phế đều có tác dụng tương sinh tương hỗ, một tạng bị hư suy sẽ dẫn đến hai tạng đều suy nên xuất hiện chứng bệnh của hai tạng. Ví dụ: phế tỳ khí hư, ho lâu ngày, đàm nhiều, xanh lỏng, phế hư. Còn gầy gò, mệt mỏi, ăn uống kém, bụng chướng, tiện lỏng… là tỳ hư. Phế thận lưỡng hư phần nhiều thuộc âm hư. Ngoài triệu chứng phế âm hư còn có triệu chứng thận âm hư. Miệng khô, lưng đau, gối mỏi, di tinh.
Phải điều trị: bổ tỳ ích phế dùng bài thuốc hương sa lục quân gia giảm, nếu là phế thận lưỡng hư phải tư bổ phế thận phải dùng bài thuốc lục vị địa hoàng hoàn gia thêm thiên hoa phấn, mạch môn đông, sa sâm.
Đại trường thấp nhiệt.
Triệu chứng:
Đau bụng, tiết tả “lỵ cấp hậu trọng”
Đại tiện có niêm dịch, nục huyết (dây máu theo phân)
Trĩ hậu môn
Rêu trắng dày, hoặc vàng nhờn, lưỡi đỏ hồng
Mạch trầm sác
Thấp nhiệt tụ ở đại trường là tà chính tương tranh làm cho đau bụng tiết tả, thấp nhiệt thiên thịnh làm thơng tổn đến khí huyết, trọc khí hạ hãm làm cho "lỵ cấp hậu trọng”, tà thực (tà khí thực), phạm vào mạch làm cho mục huyết thấp nhiệt trệ ở huyết mạch làm cho trĩ hậu môn và tiện huyết.
Pháp điều trị: thanh lợi thấp nhiệt. Nếu như thấp biểu tiết tả dùng bài thuốc “cát căn cầm liên thang” hoặc thấp biểu lỵ tật, trĩ dùng bài thuốc “bạch đầu ông thang”. Nếu trĩ hoặc đại tiện ra máu có thể dùng thêm: quỉ hoa, địa du, kim ngân hoa, đông qua nhân, trắc bá diệp, kinh giới sao, chỉ sác…
Phế chủ giáng khí, phế khí đại hư phải kiện tỳ thăng đề, phế đại trường tương quan biểu lý, phế thực biểu phải tả đại tràng, có lợi cho sự hoá giáng của phế khí, còn như tâm khí bất túc mà dẫn đến tiện bế, không phải dùng tả pháp mà phải bổ phế khí để nhuận tràng.
THẬN VÀ BÀNG QUANG
Thận vi tiên thiên chi bản.
Công năng sinh lý: chủ tàng tinh, chủ thủy thận nội tạng có nguyên âm, nguyên dương. Khi bệnh lý phần nhiều là hư, thường chia hai loại; thận âm hư và thận dương hư, trong đó bao gồm sinh dục, tiết niệu, thần kinh, nội tiết… còn triệu chứng hay gặp ở bàng quang là thấp nhiệt
Thận âm hư
Triệu chứng:
Đau choáng mắt hoa
Tai ù, tai điếc
Răng đau hoặc lung lay, mất ngủ, môi miệng khô
Ngũ tâm phiền nhiệt, đạo hãn (ra mồ hôi trộm)
Lưng gối đau mỏi, xương đùi, xương ống chân đau, di tinh
Lưỡi hồng khô hoặc rêu xanh, tiểu tiện ngắn, đỏ, miệng khô về đêm tăng, mạch sác hoặc huyền sác là “âm hư hoả vượng”.
Thận âm hư: tân dịch bất túc, tường hoả vượng thịnh nên thấy ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô (thuộc âm).
Âm hư tắc dương vượng: đầu chóng, mắt hoa, tai ù, tai điếc, mất ngủ. Thận chủ cốt, thận âm bất túc làm cho gối mỏi, đau trong xương đùi cổ chân “xỉ vi cốt chi hư” cốt tủy không thông, răng lung lay mà đau.
Thận âm hư: tinh tân bất cố làm cho tự hãn, di tinh “âm hư nặng tắc hư hoả vượng” vì thế xuất hiện lưỡng quyền hồng (gò má đỏ, môi đỏ, tiểu tiện ngắn đỏ…) đó là chứng hậu nội nhiệt tân hao. Lưỡi hồng không rêu, mạch tế sác là âm hư. Nếu âm hư hoả vượng phải tư âm giáng hoả trọng dụng “tri bá bát vị hoàn”. Hay gặp trong suy nhược thần kinh, lao phổi, bệnh đái đường, viêm đường tiết niệu, chảy máu tử cung…
Thận dương hư.
Triệu chứng:
Sắc mặt ảm đạm
Tay chân không ấm
Phát dễ thoát lạc (tóc dễ rụng)
Đoản khí, suyễn
Sợ lạnh
Tinh thần ủ rũ
Tai ù, tai điếc
Răng lung lay
Lưng gối đau mỏi
Tiểu tiện ít
Phù thũng hoặc tiểu tiện về đêm nhiều.
Đại tiện lỏng nát, tự hãn.
Chất lưỡi bệu mềm, rêu trắng nhuận.
Mạch hư phù hoặc trầm trì vô lực.
Nếu mệnh môn hỏa suy có thể xuất hiện.
Dương nuy, hoạt tinh, ỉa chảy mãn tính.
Tứ chi lạnh hoặc đoản khí, khí suyễn vã mồ hôi, mạch ở lưỡng xích nhược hoặc vi tế trầm trì, trường hợp tiểu tiện nhiều, đái són, đái nhiều về đêm, sau khi đái nước tiểu còn sót lại, hoạt tinh tảo tiết, lưỡi mềm, rêu trắng, mạch hư trì nhược là: ”thận khí bất cố”.
Giải thích bệnh lý: thận khai khiếu ra tai, kỳ hoa tại phát (vẻ đẹp của râu tóc, móng tay chân) thận khí bất túc làm cho tai ù, tai điếc, tóc râu dễ rụng. Thận chủ cốt, thận dương bất túc làm cho lưng gối đau mỏi, răng lung lay “thận hư bất năng nạp khí quy thận” gây nên đoản khí mà suyễn.
Thận dương hư khiến toàn thân dương khí đều hư nên chỉ thể không nóng ấm, tự hãn (dương hư biểu bất cố) tinh thần không thoải mái, đại tiện lỏng nát (dương hư thủy phiếm), (thận hư thủy phiếm) tất sinh nước tiểu ít mà phù thũng lại thêm mệnh môn hoả suy tất sinh hư hàn càng nặng làm cho tứ chi quyết lạnh, dương nuy, hoạt tinh, ỉa lỏng sáng sớm là triệu chứng mệnh môn hoả suy.
Mệnh môn hoả suy: thận bất năng nạp khí sinh ra khí đoản, khí suyễn và mồ hôi ra nhiều (tự hãn)
Lại nói “thận khí bất cố tắc thu nhiếp bất lực: nên sinh ra hoạt tinh, táo tiết. Chứng tiểu tiện lượng nhiều hoặc đái són là thận dương hư, rêu lưỡi trắng nhuận còn dương hư thủy phiếm thì lưỡi mềm bệu và mạch trầm vô lực, nếu trầm trì là hàn năng hơn thiên.
Pháp trị: phải bổ thận dương thường dùng phương thuốc kim quỉ thận khí hoàn gia vị. Nếu mệnh môn hoả suy thì lấy ỉa lỏng làm chủ chứng phải trọng dụng bài tứ thần hoàn, nhược bằng khí đoản, khí suyễn có thể dùng “hắc duyên đan gia vị”. Nếu thận khí bất cố phải bổ thận để cố sáp niệu, nếu di niệu, di tinh là chính phải dùng bài thuốc cố tinh hoàn.
Liên hệ y học hiện đại: hay gặp trong nhược năng vỏ thượng thận, nhược năng tuyến giáp trạng, suy nhược thần kinh… thận dương hư phải dùng phương pháp điều trị trên. Viêm thận mãn tính cũng thuộc thận dương hư phải dùng bài thuốc ôn bổ thận dương kèm theo lợi thủy.
Dùng kim quĩ thận khí hoàn gia ngưu tất, sa tiền, còn như hen phế quản là thận dương hư không nạp được khí phải dùng kim quĩ thận khí hoàn gia hồ đào nhục, ngũ vị tử, nếu mệnh môn hoả suy không nạp khí phải dùng hắc duyên đan. Còn như chứng bệnh đái đường, đái nhạt, viêm thận mãn tính, di niệu do thận khí bất cố phải dùng bài thuốc sá truyền hoàn để diều trị. Ngoài ra còn phải kết hợp châm cứu; thận du - tam âm giao.
Thận âm dương lưỡng hư.
Triệu chứng chủ yếu:
Sắc mặt ảm đạm
Tâm phiền
Rụng tóc, răng đau
Tự hãn
Khô miệng
Sợ lạnh
Chi lạnh, di tinh
Lưỡi nhợt, co ngắn
Dạ đa tiểu tiện (đái đêm nhiều)
Rêu mỏng
Mạch trầm tế nhược
Bệnh lý: do âm dương hỗ căn, âm hư lâu ngày dẫn đến dương hư, trái lại dương hư cũng dẫn đến âm hư, nếu thận âm dương đều hư tất nhiên sẽ dẫn đến hai loại chứng hậu. Khi biện chứng cụ thể cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể, chẳng những phân biệt là âm hư nặng hay nhẹ mà còn là dương hư nặng hay nhẹ để chọn dùng thuốc điều trị cho phù hợp.
Pháp chữa: phải âm dương cùng bổ. Phải dùng hợp phương bài thuốc; hữu qui ẩm, tả qui ẩm gia giảm. Nếu dương hư nặng hơn thêm hai loại: ba kích, nhục quế, còn âm hư nặng hơn gia qui bản, miết giáp, đan bì…
Tâm thận bất giao
Triệu chứng chủ yếu:
Tâm quí
Đầu choáng
Tâm phiền
Mất ngủ, hay quên
Tai ù, tai điếc
Lưng gối đau mỏi
Lưỡi thon hồng
Mạch tế hoặc tế sác
Tâm và thận tương hỗ chế ước, hỗ tương tự sinh, tương tắc tương thành, nếu tâm thận thất điều, xuất hiện các triệu chứng trên.
Trị liệu: phải dưỡng tâm thận dùng bài lục vị hoàn gia: ngũ vị tử, toan táo nhân, bán hạ chế. Nếu có đái són thêm: liên tu, nếu hư hoả vượng, mất ngủ nặng thêm: hoàng liên, nhục quế tâm (hoàng liên vị đắng vào tâm thanh tâm hoả là chủ dược lại cho quế vào thận để dẫn hoả quy nguyên) tác dụng chính để giao thông tâm thận gọi là phơng thuốc giao tần hoàn (hoàng liên 8g, nhục quế 4g). Liên hệ với y học hiện đại hội chứng và bệnh suy nhược thần kinh thường thuộc tâm thận bất giao.
Bàng quang thấp nhiệt.
Chủ chứng: phát sốt, đái són, dắt buốt, đau hoặc đái dầm dề, nếu dột nhiên trung đoạn (đái ngắt quãng), nước tiểu đục hoặc có máu hoặc bên trong có sa thạch (có sạn sỏi), rêu lưỡi vàng hoặc vàng nhờn, mạch sác.
Bệnh lý: bàng quang thấp nhiệt, nhiệt thịnh ở trong gây phát sốt, nếu sợ lạnh là kèm theo biểu chứng, bàng quang thấp nhiệt ở dưới (do rối loạn bài niệu gây nên). Nếu thấp nhiệt nội ẩn lâu ngày tất sinh sỏi niệu (sa thạch), thấp nhiệt quá thịnh tất sinh nục huyết.
Triệu chứng đặc trưng thấp nhiệt: rêu lưỡi vàng, mạch sác.
Pháp chữa: thanh nhiệt lợi thấp, phải dùng bài thuốc bát chính tán gia: hải kim sa đằng, diệp hạ châu, kim tinh thảo, nếu có sa thạch phải dùng thêm kim tiền thảo, hải kim sa, nếu niệu huyết phải dùng lương huyết, chỉ huyết, sinh địa, đại tiểu kế, bạch mao căn, tía châu thảo…
Liên hệ y học hiện đại: viêm đường tiết niệu, sỏi tiết niệu, viêm tiền liệt tuyến đều thuộc về thấp nhiệt ở bàng quang nên có thể dùng bài thuốc bát chính tán hoặc phải thêm nhĩ châm (vùng thận và bàng quang). Nếu lâu ngày thận khí hư phải dùng kim quĩ thận khí hoàn gia: ngưu tất, sa tiền tử.
Đặc điểm biện chứng luận trị của thận và bàng quang.
Bệnh thận ít thực chứng không có biểu chứng, thận hàn là do dương hư mà dẫn đến, thận hỏa vượng là do âm hư. Vấn đề căn bản trong điều trị là phải bổ thận dương, tư thận âm.
Thận chủ tàng tinh: phép bổ dương thường trên cơ sở bổ âm mà gia thêm thuốc. Ví dụ: tên phương thuốc bổ thận dương “kim quĩ thận khí hoàn” tức là trên cơ sở bài lục vị địa hoàng hoàn của phép bổ - tư thận âm. Thêm chế phụ tử, nhục quế để ôn thận dương còn như dương hư quá nặng cũng có thể chuyển hướng phù dương để phối âm nhưng chỉ tạm thời không nên dùng lâu sẽ chuyển sang âm hư.
Bàng quang và thận tương quan biểu lý, vì vậy chứng bàng quang hư phải bổ thận dương để trị bản, còn trị bàng quang thấp nhiệt có thể trực tiếp thanh lợi ở bàng quang.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh