Gia giảm những bài thuốc cổ phương trong điều trị

Để điều trị những chứng bệnh ấy và để phù hợp với từng thể bệnh, chúng tôi đã gia giảm một số bài trong điều trị mang lại hiệu quả tốt, xin giới thiệu một số bài thuốc điển hình để bạn đọc tham khảo và áp dụng.

Bài Tiêu giao tán:

Thành phần: Bạch truật 12g, bạch linh 12g, đương quy 8g, bạch thược 12g, sài hồ 6g, bạc hà 6g, cam thảo 4g.

Bài thuốc có tác dụng lý tỳ thanh can. Do huyết hư can khí uất, can và tỳ không điều hòa với nhau, sinh ra các chứng ngực sườn trướng đau, ho, sốt, nhiều đờm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, mạch hư huyền. Điều trị: kiện tỳ bình can, thanh nhiệt. Cái hay của bài thuốc này là gia giảm. Nếu can khí nhiệt gia chi tử (sao) 8g, đan bì 8g. Nếu can khí trệ gia trần bì 12g. Nếu can khí uất gia xuyên khung 8g, hương phụ 12g. Nếu can khí uất tích nhiệt gia ngô thù du 6g, hoàng liên 8g, bạc hà 6g để dẫn thuốc. Bài thuốc đã điều trị cho 27 bệnh nhân có kết quả tốt.

 

Bài địa hoàng ẩm tử

Thành phần: Thục địa 16g, sinh địa 16g, nhục quế 4g, hắc phụ tử (chế) 8g, nhục thung dung 12g, ba kích 16g, bạc hà 6g, phục linh 12g, viễn chí 6g, sơn thù nhục 16g, thạch hộc 12g, mạch môn 12g, ngũ vị tử 4g, thạch xương bồ 6g. Gia trạch tả 12g, thông thảo 6g.

Bài thuốc có tác dụng: Bổ nạp nguyên dương, hóa đờm, khai khiếu. Điều trị các chứng: Hạ nguyên hư suy, hư dương thượng phú, đờm nghịch, chân yếu không đi lại được, lưỡi rụt nói năng khó khăn, bí tiểu tiện. Bài thuốc đã điều trị cho một số bệnh nhân tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô. Điển hình là bệnh nhân N.T.T., Khoa Nội A, có các triệu chứng trên. Tây y nghi do nhũn não của người cao tuổi mà sinh bệnh, não không điều khiển được nên có các triệu chứng trên. Đặc biệt bí tiểu tiện một ngày đêm bệnh nhân căng bàng quang đau tức khó chịu nhưng không chịu thông tiểu tiện, vì sợ đau. Tây y đã chuẩn bị chích bàng quang để đặt xông. Do ý kiến của một vị lão thành cách mạng “nên mời Đông y để kết hợp điều trị”. Các thầy thuốc Đông y chẩn đoán do thận dương suy kém, mệnh môn hỏa không đủ khả năng sưởi ấm, khí không thăng lên được, làm cho sự thăng giáng của của phế khí bị trở ngại, sinh ra đờm dãi, làm tắc nghẽn ở thượng tiêu mà hạ nguyên thiếu khí làm chức năng túc giáng của bàng quang bị trở ngại sinh ra chứng bí tiểu tiện. Sau khi xem mạch đã dùng bài thuốc “Địa hoàng ẩm tử nói trên để điều trị” nhưng bỏ vị ba kích, vì ba kích là vị thuốc cố tinh làm trở ngại thông tiểu tiện. Trong Đông y, tinh sinh ra khí, khi tinh bị hãm thì khí không lưu thông. Bệnh nhân uống 3 thang. Sau khi uống thang thứ nhất bệnh nhân đã đi tiểu tiện được, uống đến thang thứ 3 thì bệnh nhân đã đi tiểu bình thường.

 

Bài Lục vị hoàn gia giảm

Thành phần: thục địa 16g, hoài sơn 12g, sơn thù 6g, trạch tả 8g, bạch linh 12g, đan bì 12g.

Trong ngũ quan khoa khi nói về mắt người ta thường dùng chữ “Tinh”. Đông y cho rằng: “Tinh của khí ngũ tạng, lục phủ đều đi lên, rót vào mắt cho nên mới gọi là tinh, cái ổ của tinh là hai con mắt, nên mới gọi là mắt tinh, tinh của khí là lòng trắng, tinh của cân (gân) là lòng đen, tinh của cốt (xương) là đồng tử, tinh của huyết là khóe mắt, tinh của nhục (thịt) là ước thúc (ràng buộc, điều tiết), nhỡn bào (các dịch trong mắt) lấy tinh của cân, cốt, huyết, khí để liên hệ với mạch đi lên não. Khi bị các chứng bệnh ở mắt là do nhiệt nung nấu, làm cho tấu lý mở ra, phong tà nhập vào đó, tà của phong và nhiệt cùng hợp lại tấn công vào mắt, làm cho mắt mờ, đau nhức, chảy nước mắt, có khi sưng đỏ mà đau. Nếu nhẹ thì gọi là ngoại chứng, hoặc sinh ra màng mộng. Nếu nặng thì tích nhiệt lại, sinh ra các chứng làm tổn thương con ngươi của  mắt”.

Nếu sốt cao thì gia tri mẫu 12g, hoàng bá 12g gọi là bài “Lục vị tri bá”. Nếu sốt về chiều thì gia ngũ vị tử 6g gọi là “Đô tấu thang”. Để dẫn hỏa quy nguyên thì gia nhục quế 6g gọi là “Thất vị địa hoàng thang”. Nếu hỏa vượng hình kim (tâm hỏa vượng làm tổn thương phế kim) gia nhục quế 4g, phụ tử (chế) 4g gọi là “Sinh mạch Địa hoàng thang”. Để chế dương nâng thủy gia tri mẫu 8g, hoàng bá 8g, xa tiền tử 12g, ngưu tất 8g, nhục quế 6g, phụ tử (chế) 6g gọi là “Thận khí thang”. Nếu gặp các chứng như thận khí hư không nhiếp được dịch, làm dịch dềnh lên biến thành đờm, sinh ra chứng đạo hãn (ra mồ hôi trộm), di tinh, chứng tiêu khát (uống nước vào tiêu ngay) rồi lại khát (chứng tiểu đường do phế âm hư) hoặc mắc một số chứng lâm như đái dắt, chứng trọc (đái đục). Thận âm hư hỏa bốc lên sinh ra chứng lở môi miệng, viêm họng đều có thể dùng bài Lục vị gia giảm này để điều trị.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top