1. Thông tin khoa học:
2. Mô tả cây:
Cây dễ nhầm lẫn: Loài Jasminum anastomosans Wall., cụm hoa chỉ có 2 – 3 hoa cũng được dùng với công dụng tương tự. Chú ý: Tránh dùng nhầm chè vằng với lá ngón vì chúng rất giống nhau ở dáng cây. Đã có trường hợp hái nhầm và dùng bị ngộ độc chết người.
3. Phân bố sinh thái:
Chè vằng phân bố phổ biến và khá tập trung ở khu vực các nước Đông Nam Á và Nam Á. Ngoài ra, cây cũng còn gặp cả ở các tỉnh phía nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Ở Việt Nam, chè vằng có rải rác ở hầu hết các tỉnh thộc vùng núi thấp, trung du và cả đồng bằng. Không thấy cây mọc ở vùng núi cao trên 1500 m.
Ở Việt Nam, chiJasminum L. có 30 loài, trong đó 8 loài được dùng làm thuốc. Trừ loài hoa nhài, 7 loài còn lại thuộc nhóm dây leo hay cây mọc dựa, thường có tên gọi chung là “Vằng” hoặc “Chè vằng”. Nguồn trữ lượng chè vằng ở Việt Nam nhìn chung tương đối dồi dào. Việc thu hái cành lá hàng năm không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cây.
Chè vằng là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, nhất là thời kỳ cây còn nhỏ, thường mọc lẫn trong các lùm bụi ở ven đồi, bờ nương rẫy và quanh làng bản. Cây mọc nơi đất ẩm, sinh trưởng mạnh hơn cây ở vùng đồi khô hạn. Chỉ có những cây mọc trùm lên các cây bụi khác, được chiếu sáng đầy đủ mới thấy có nhiều hoa quả. Trong tự nhiên thường gặp nhiều cây con mọc từ hạt xung quanh gốc cây mẹ. Sau khi bị chặt phá nhiều lần, phần thân, cành còn lại của chè vằng đều có khả năng tái sinh nhiều chồi.
4. Cách trồng:
Chè vằng chưa được sản xuất lớn, chỉ mới được trồng phân tán ở các gia đình để làm hàng rào, ở các vườn thuốc của trạm y tế xã, bệnh viện, trường học, các cơ quan nghiên cứu để làm thuốc, nghiên cứu và giảng dạy. Cây không kén đất, có khả năng chịu hạn, ít bị sâu bệnh.
Chè vằng chủ yếu được nhân giống bằng hạt. Hạt gieo vào tháng 2-3 hoặc tháng 8-9. Cũng có thể thu gom cây con mọc tự nhiên xung quanh gốc chè vằng để đem trồng. Ngoài ra, còn có thể tách khóm hoặc dùng cành để nhân giống vào mùa xuân là thời vụ tốt nhất. Chè vằng thường được trồng theo hốc. Vào mùa xuân, đào hốc cách nhau 1-1,2m, mỗi hốc bón lót một ít phân chuồng sau đó gieo hạt, đặt cây con hoặc hom giống.
Cây sống nhiều năm, thu hoạch thường xuyên. Sau mỗi lần thu hoạch, cần bón thúc thêm phân, làm cỏ, xới xáo.
5. Bộ phận dùng:
Cành lá, thu hái quanh năm, phơi khô.
6. Thành phần hoá học:
Lá chè vằng chứa alcaloid, nhựa, flavonoid (Nguyễn Thị Ninh Hải, Luận án Tiến sĩ Dược học 1986)
7. Tác dụng dược lý:
Chè vằng ức chế khá mạnh in vitro sự phát triển của các chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn tan máu, Shigella dysenteriae, S.shigae, trực khuẩn thương hàn, Achromobacter và ức chế yếu hơn đối với trực khuẩn mủ xanh.
Chè vằng cũng có tác dụng ức chế in vitro đối với sự phát triển của nhiều chủng vi khuẩn phân lập từ bệnh phẩm kháng với những thuốc kháng sinh thông dụng như: tụ cầu vàng, liên cầu tan máu, Staphylococcus albus, S.epidermidis.
Chè vằng có tác dụng bảo vệ chuột nhắt trắng chống lại nhiễm khuẩn máu gây bởi trực khuẩn thương hàn, làm tăng có ý nghĩa tỷ lệ chuột sống sót. Trong nghiên cứu lâm sàng, chè vằng có tác dụng dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn sau khi đẻ và áp xe vú do tắc tia sữa. Chè vằng có tác dụng chống viêm trên những mô hình gây phù cấp tính bàn chân với kaolin và gây u hạt mạn tính với amiăng ở chuột cống trắng. Dược liệu cũng làm giảm sốt gây bởi natri nucleinat ở thỏ, thúc đẩy nhanh quá trình lành của vết thương gây thực nghiệm ở chuột cống trắng, và dự phòng loét dạ dày trên mô hình thắt môn vị ở chuột cống trắng. Chè vằng gây tác dụng lợi mật trên chuột lang, làm giảm co bóp tự nhiên của tử cung và giảm co thắt ruột gây bởi acetylcholin và bari clorid trên chuột cô lập. Dược liệu biểu hiện rất ít độc trong những thử nghiệm về độc tính, cấp tính và mạn tính.
Bệnh viện Thái Bình có làm kháng sinh đồ so sánh với penicilin 1 đơn vị quốc tế trong 1ml và streptomyxin 20γ trong 1ml, chlorocid 50γ trong 1ml và sunfamid thì thấy dây vằng có tác dụng kháng sinh mạnh hơn các thuốc trên đối với tụ cầu khuẩn (Staphyllococcus) và liên cầu khuẩn tan huyết (Streptococcus hemolytique). Bệnh viện Thái Bình còn dùng dây vằng chữa áp xe vú (Nguyễn Văn Lờ, Y học thực hành 11-1963: 14-15).8
8. Tính vị, công năng:
Chè vằng có vị hơi đắng, chát, tính ấm, vào hai kinh: tâm, tỵ, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, khu phong, hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, trừ mủ.
9. Công dụng và liều dùng:
Nhân dân nhiều tỉnh dùng lá vằng phơi khô nấu hay pha nước uống hằng ngày hay cho phụ nữ sau khi đẻ uống nhằm đem lại tác dụng lợi sữa và phòng các nhiễm khuẩn sau đẻ. Có nơi dùng lá nấu nước tắm cho trẻ con bị ghẻ lở.
Tại Miền Nam, nhân dân dùng lá chữa sưng vú cho phụ nữ mới đẻ uống, còn dùng chữa rắn cắn, rễ mài với dấm thanh để làm hết mủ những ung nhọt đã nung mủ. Liều uống hằng ngày: 20-30g lá khô; dùng ngoài: Không kể liều lượng.
Kinh nghiệm dùng lá chè vằng của bệnh viện Thái Bình: Dùng lá chè Vằng giã nát đắp vào nơi áp xe. Ngày 3 lần, đêm 2 lần. Thời gian điều trị thường là 1 ngày đến 1 tuần tùy theo bệnh nặng nhẹ và được bắt đầu chữa bằng lá chè vằng sớm hay muộn. Trung bình 1,5 – 2 ngày. Bệnh nhân điều trị bằng chè vằng thường hết sốt sau 2 giờ dùng thuốc, sau khi khỏi công thức và số lượng bạch cầu trở lại bình thường, sữa cũng trở lại bình thường.
Chè vằng được dùng trị kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc khi thấy kinh đau bụng, sau khi đẻ bị nhiễm khuẩn sốt cao, viêm hạch bạch huyết, viêm tử cung và tuyến vú, áp xe vú, khí hư bạch đới. Còn dùng trị phong thấp do huyết kém, đau nhức khớp xương, vàng da, ghẻ lở, chốc đầu, các bệnh ngứa ngoài da, rắn cắn. Ngày dùng 40 – 100g cây tươi hoặc 20 – 30g dược liệu khô dưới dạng thuốc sắc hoặc nấu nước tắm, liều lượng không hạn chế.
10. Minh chứng khoa học
11. Bài thuốc liên quan
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh