Chi Laggera Sch. – Bip. phân bố chủ yếu ở vùng cận nhiệt đới, ôn đới ấm và một số loài có ở vùng nhiệt đới.
Ở Việt Nam, chi này có 4 loài, 2 loài làm thuốc trong đó có loài cúc lục lăng trên. Trên thế giới, cúc lục lăng phân bố khá rộng rãi từ phía đông Ấn Độ sang Mianma, Trung Quốc, xuống phần bắc Lào, Thái Lan và Malaysia.
Ở Việt Nam, loài này đã ghi nhận được hầu hết các tỉnh miền núi giáp biên giới phía Bắc, như Cao Bằng, Lạng Sơn, Quang Ninh, Lào Cai, Sơn La, Bắc Cạn, và ở phía nam bao gồm: Kon Tum (Kon Plông), Đắc Lắc (Đào Min cũ), Lâm Đồng (Lang Bian, Đức Trọng).
Bộ phận dùng:
Toàn cây.
Lá chứa 34 thành phần trong đó các thành phần chính là: thymoquinol dl – Me ether 11,17% và eudesmol 12,55%.
Cao khô toàn cây cúc lục lăng được tiêm phúc mạc cho chuột nhắt trắng với liều 1000 mg/kg chuột vẫn không chết.
Cho chuột cống trắng uống cao khô các lục lăng với liều 250 mg/kg một dung dịch có 5mg, cao/ml (thể tích uống là 5 ml/100g chuột), lô đối chứng cho uống nước với cùng thể tích 5 ml/ 100g, rồi cho vào lồng chuyển hóa, mỗi lồng một con chuột. Kết quả cho thấy cao 5 ml/100g có tác dụng lợi tiểu [Dhaw an et al., 1977: 208].
Tác dụng chống viêm của các hợp chất phenolic tổng số được chiết từ toàn cây cúc lục lăng đã được đánh giá trên một số mô hình viêm cấp tính và viêm mạn tính in vivo.
Trong các mô hình gây viêm cấp thực ngiệm, các chất phenolic tổng số ức chế có ý nghĩa phủ tại ở chuột nhắt trắng do bối xylen vào tai chuột; ức chế có ý nghĩa phù chân chuột cống trắng do tiêm vào dưới da gan bàn chân chuột carragain để gây viêm; và ức chế tính thẩm mạch do acid acetic gây ra ở chuột nhắt trắng.
Tác dụng bảo vệ gan cuả flavonoid tổng số phân lập được từ cúc lục lăng đã được nghiên cứu trên tổn thương do carbon tetraclorid (CCL) ở tế gan chuột cống trắng mới sinh và ở chuột cống trắng bị tổn thương gan do CCl4.
Kết quả cho thấy, tác dụng bảo vệ gan của flavonoid tổng số trong cúc lục lăng có liên quan với tác dụng chống oxy hoá và tác dụng chống viêm.
Toàn cây cúc lục lăng vị đắng và cay, tính hơi ấm, có mùi thơm; có công năng tiêu thũng, tán ứ, tiêu độc, giảm đau.
Sách “Bản thảo cầu nguyện” ghi: cúc lục lăng vị cay ngọt, tính bình, sách “Tân hoa bản thảo cương yếu” ghi: vị cay, đắng, tính hàn; sách “Phúc khiến dân gian thảo dược” ghi: vị đắng, hơi cay, tính ấm, sách “Nam Ninh thị dược vật chí” ghi: vị cay, đắng, tính hơi ẩm; sách “Mân Đông bản thảo ghi: cúc lục lăng vào ba kinh là phé, tỷ và bàng quang: có công năng thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm, tiêu thũng, khư phong trục thấp, chỉ thông, thị thống kinh [TDTH, 1997, III: 5091].
Toàn cây cúc lục lăng được dùng trị cảm cúm, ho kéo dài, đau khớp xương, đau lưng, viêm thận, phù thũng, vô kinh, đau bụng trước khi sinh. Liều dùng hàng ngày 15 – 30g (dùng tươi 30 – 60g), sắc chia 2 lần uống.
Dùng ngoài trị mụn nhọt, viêm mô tế bào, tràng nhạc, đau do đón ngã, bỏng, eczema, rắn cắn. Lấy một lượng vừa đủ cây tươi, giã đắp ngoài, hoặc đun lấy nước tắm rửa.
Ở Ấn Độ và Madagascar, cúc lục lăng được dùng làm thuốc khử khuẩn, tẩy uế; là để cầm máu khi bị các vết thương chém chặt [Chopra et al., 2001: 149; Srivastava, 1989:82).
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh