Mạn kinh thuộc loại cây nhỏ, cao tới 1m, cành non có 4 cạnh được phủ lớp lông mềm. Lá kép với 3 lá chét (V.trifolia) hoặc lá đơn (V.rotundiflolis), mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông nhỏ, màu trắng bạc. Hoa màu lơ nhạt mọc thành chùm xim ở đầu cành, hoặc phía dưới cuống lá. Quả hình cầu nhỏ, đường kính khoảng 2-3mm, mặt ngoài màu xám, phủ nhẹ lớp phấn màu trắng tro, thể chất nhẹ song cứng, có mùi thơm nhẹ đặc trưng.
Mạn kinh tử còn có tên là mạn kinh thực, quan âm, kinh tử, từ bi biển, đẹn ba lá; là quả chín của cây mạn kinh hay mạn kinh lá đơn (Vitex trifolia L.), thuộc họ cỏ roi ngựa. Mạn kinh tử chứa tinh dầu, flavoid, acid vanilic... Theo Đông y, mạn kinh tử vị đắng cay, tính hơi hàn; vào các kinh can, vị và bàng quang. Có tác dụng sơ tán phong nhiệt, thanh lợi đầu mắt.
Ngoài ra, còn có flavonoid casticin, vitamin A và alcaloid. Dịch sắc và dịch chiết cồn của cây thuốc có tác dụng với các chủng vi khuẩn gram dương, như Bacillus subtilis, Bacillus pumilus, Bacillus cereus, Sarcina lutea, còn tác dụng ức chế tụ cầu vàng Staphylococus aureus.
Theo YHCT, mạn kinh tử có tác dụng trị cảm mạo phong nhiệt, sốt cao, đau đầu, đau vùng thái dương, đau nhức trong hốc mắt, hoa mắt, chóng mặt, cao huyết áp. Trong trường hợp không bị cảm mạo mà vẫn có đau đầu, đôi khi xuất hiện đau nửa đầu, có thể chỉ 1 bên đầu, hoặc cả 2 bên, hoặc đau 2 bên đổi nhau. Dùng vị thuốc này vẫn phát huy tác dụng.
Liều dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Cần lưu ý, những người huyết hư mà đau đầu, dùng thận trọng, vì thuốc có tính thăng tán.
Kiêng kỵ: Người huyết hư gây đau đầu, đau mắt đỏ thì dùng phải cẩn thận.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh