A. Mô tả cây
Màng tang là một cây nhỏ, cao chừng 5m. Lá mọc so le, hình mác, mép nguyên, có cuống ngắn, mặt trên xanh sẫm, mặt dưới màu tro trắng, vò có mùi thơm mát của sả.
Hoa khác gốc, màu trắng. Quả nhỏ lúc non có màu xanh, khi chín có màu đen giống như quả hồ tiêu.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây mọc hoang dại ở khắp vùng rừng núi cao lạnh hay mát như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.
- Khoảng hơn 10 năm trở lại đây nhân dân ta bắt đầu khai thác quả để cất tinh dầu. Một số nơi đã đặt vấn đề trồng để bảo đảm nguồn thu nguyên liệu lâu dài. Trồng bằng hạt vào mùa đông và mùa xuân.
- Mùa hoa: tháng 1-3, mùa quả: tháng 4-6.
- Để làm thuốc, người ta hái quả như để cất tinh dầu. Ngoài ra còn dùng rễ. Rễ đào về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô.
C. Thành phần hóa học
- Quả chứa 2-6% tinh dầu. Một số địa phương cho tới 10-15% tinh dầu, Tinh dầu màu vàng nhạt, tỷ trọng d15o 0,8925-0,9068; n20D° 1,4785- 1,4864, (α)D=5-9o45. Thành phần chủ yếu gồm 70-90% xitral. Ngoài ra còn metylheptenon. Bã sau khi cất tinh dầu còn có 38% chất dầu béo (Trung Quốc kinh tế thực vật chí 1961, 1338, 753).
- Quả sau khi cất tinh dầu còn chứa 40% dầu béo và 2% ete.
- Vỏ rễ chứa 0,2-1,2% tinh dầu; tỷ trọng d)S0 0.860-0,905; n20D 1,4772; -(α)D= 17,2121°. Thành phần chủ yếu của tinh dầu gồm 10% xitral, 8-12% xitronellol.
- Lá chứa 0,2-0,4% tinh dầu; d15 = 0,899-0,904; (thành phần chủ yếu gồm 20-35% xineol, ngoài ra còn các hợp chất andehyt khoáng 6-22%, ancol 20-25%.
- Hoa chứa tinh dầu có d20 = 0,8788; (α)-6o21. Trong tinh dầu có khoảng 37,36% hợp chất andehyt.
D. Công dụng và liều dùng
- Quả màng tang là một nguyên liệu cất tinh dầu làm nguồn xitrala dùng trong nước và xuất khẩu.
- Người ta dùng quả và rễ để chữa đau bụng, không tiêu, chữa nhức đầu. Còn dùng chữa rắn cắn.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh