✴️ Vị thuốc Mật động vật – đởm

Nội dung

 

Hình ảnh mật động vật

  • Đông y và tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, dê, lợn, bò, trăn, rắn, gà, cá chép…ngoài ra lại còn dùng cả sỏi trong túi mật của con bò, con trâu có bệnh nữa (ngưu hoàng).
  • Thống kê những công dụng của mật dùng trong đông y, chủ yếu ta thấy hay dùng chữa đau bụng, kém tiêu hóa, đau gan, dạ dày, ho hen, táo bón, ho gà. Dùng ngoài, mật có tác dụng tiêu sưng, viêm như dùng chữa đau mắt, đòn, thương tật, chó cắn hay rắn cắn sưng đau.
  • Một số mật được giới thiệu cùng với con vật (mật rắn) hay chỉ giới thiệu riêng (mật gấu); ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu mật lợn, mật bò hiện nay còn ít sử dụng.

MẬT LỢN, MẬT BÒ 

Mật lợn, bò có thể dùng tươi nhưng vì khó uống và không để được lâu cho nên thường cô đặc thành cao đặc hay cao khô hoặc đem tinh chế thành cao mật bò, cao mật lợn tinh chế.

A. Cách chế biến cao mật bò, mật lợn 

  • Có nhiều phương pháp hiện được áp dụng. Tuỳ hoàn cảnh ta có thể áp dụng một trong các phương pháp sau đây, đồng thời theo dõi xem phương pháp nào tốt và rẻ nhất.
  • Phương pháp của Đội đều trị 10 (Dược học 1961,2:13): lấy 20-30 túi mật hay hơn nữa hoặc ít hơn tuỳ theo lượng cao muốn có. Rửa sạch vỏ túi mật bằng nước muối 0,9%. Sau đó ngâm vào cồn 900 trong 1-2 phút để sát trùng. Đem cắt thủng túi mật và hứng nước mật cho chảy qua vải để lọc. nước mật đã lọc được đem đun cách thuỷ, vừa đun vừa khuấy cho tới thành cao đặc. Kinh nghiệm là đun cho tới khi nghiêng bát mà cao không chảy là được cao màu vàng hơi xanh, vị rất đắng.
  • Phương pháp của Viện nghiên cứu đông y (Dược học 1964,2:12): phương pháp này nhanh hơn: lấy dao kéo đã khử trùng chọc thủng túi mật, hứng vào một bát to đã khử trùng rồi. Nếu có mỡ, cần loại bỏ mỡ hoặc cho vào bình gạn với một ít ete, lắc kỹ, mỡ tan trong ete, gạn bỏ lớp ete. Nếu xét nghiệm thấy có giun lambiia, sỏi mật thì không nên dùng phương pháp này. Lọc mật qua vải, lấy nước phèn chua no (thêm phèn chua vào nước cho đến khi không tan nữa), nhỏ từ từ vào nước lọc mật, nước lọc mật sẽ kết tủa. Khi nào cho thêm nước no phèn vào dịch lọc mà không thấy tủa nữa là đủ phèn rồi. Rửa tủa trên giấy lọc bằng nước cất để loại phèn thừa, rồi đặt tủa trên một đãi sắt tráng men sạch đưa vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ dưới 70oC cho tới khi khô; tán thành bột là được cao mật khô.
  • Phương pháp của dược điển Pháp 1949 dược áp dụng ở xí nghiệp dược phẩm I (Dược học 1962,1:15) có thể dùng cho cả mật bò và mật lợn mật bò 1.000g, Cồn 90o 1.000g, Cồn 70o 200g.
  • Lọc mật bò qua rây. Thêm cồn 900 vào, khuấy đều. Khuấy như vậy 4-5 lần rồi để yên trong 2 ngày. Gạn lấy phần trong ở trên. Phần tủa lọc qua giấy lọc xếp nếp. trong khi lọc cần đậy kín để tránh bay hơi cồn, rửa tủa còn lại trong bình và trên giấy lọc bằng 200g cồn 70o dùng làm nhiều lần, để lấy hết nuối mật. Hợp các dung dịch cồn lại và cô trong áp lực giảm, nhiệt độ dưới 50oC cho tới độ cao chắc. Ta sẽ được cao mật bò mà vàng lục nhạt vị đắng hơi ngọt.
  • Muốn tinh chế hơn thì trước khi cô thu hồi cồn, cứ một lít thêm vào 5g than hoạt và 5g caolin đã rửa sạch và tiệt trùng, lắc trong vài giờ và để lắng trong 2 ngày. Lọc trong rồi mới tiến hành cô trong áp lực giảm ở nhiệt độ dưới 500C cho tới khô. Tán bột, đựng trong lọ kín. Cao này gọi là cao mật bò tinh chế khô, màu vàng nhạt, rất dễ hút ẩm, vị nhạt rồi đắng, hít vào gây hắt hơi.
  • Phương pháp này cầu kỳ, chỉ có thể áp dụng ở một số cơ sở. tại địa phương ta có thể áp dụng phương pháp của đội điều trị 10 hay Viện nghiên cứu đông y.

B. Thành phần hoá học

  • Trong cao mật bò chế như trên có hỗn hợp natri glycocholat và natri taurocholat, sắc tố mật bilirubin và bilivecdin, cholesterol, axit taurodesoxycholat (hay tauochenodesoxycholat) và một số muối mật khác như muối cholat và glycodesoxycholat (hay glycochenodesoxycholat).
  • Trong mật lợn chủ yếu gồm các muối cholat như hydesoxycholat, glycocholat, glycodesoxycholat (hay glycochenodesoxycholat), tauocholat, taurodesoxycholat cholesterol, và một số (hay taurochenodesoxycholat) sắc tố mật như bilirubin.

C. Tác dụng dược lý 

  • Từ lâu người ta đã chứng minh mật lợn, bò có tác dụng kích thích nhu động ruột, hấp thu ở vùng tá tràng, nó kích thích rất mạnh sự bài tiết mật, vừa có tác dụng kích thích tiết mật (cholagogue). Do sự bài tiết mật này nó giúp và cùng với dịch tuỵ tiêu hoá chất béo.
  • Mật còn là một chất sát trùng đường ruột.
  • Trên thục nghiệm, mật gây tiêu máu nhưng không gây ngứa.
  • Do những tính chất trên, uống mật vào ngoài tác dụng của mật còn có tác dụng là một chất kích thích trong những trường hợp rối loạn đường mật và đường tiêu hoá, thiểu năng gan và tuỵ, táo bón kèm theo lên men thối ở ruột, viêm ruột kết.
  • Gần đây tại Trung quốc đã có những công trình nghiên cứu tác dụng của mật lợn đối với bệnh ho gà và bệnh ho.
  • Trong ống nghiệm, mật lợn có tác dụng ức chế mạnh đối với tực trùng ho gà Bacillus pertussis.
  • Muối natri cholat, thành phần chủ yếu của mật lợn có tác dụng đối với ho: dùng điện cảm ứng kích thích thần kinh yết hầu gân ho phản xạ trên mèo đã gây mê, sau đó tiêm natri cholat vào tĩnh mạch đùi thấy có tác dụng giảm ho rõ rệt.
  • Tiêm natri cholat vào tĩnh mạch đùi của thỏ làm thí nghiệm phản xạ trên phổi, thấy có tác dụng ức chế trung khu hô hấp.
  • Trên phổi cô lập của chuột lang, natri cholat làm dãn cơ trơn tiểu phế quản.
  • Ngoài ra natri cholat còn có tác dụng chống co giật do pilocacpin gây nên. Vậy natri cholat, thành phần chủ yếu trong mật lợn, có tác dụng giảm ho và chống co giật.

D. Công dụng và liều dùng

  • Mật bò và mật lợn thường được dùng để chữa táo bón, bệnh về gan, mật, bệnh về đường tiêu hóa
  • Ngày dùng 0,5g-1g (uống) hoặc thụt (4g trong 250ml nước)
  • Gần đây mật lợn được dùng chữa ho gà dưới dạng siro có chứa 20mg cao mật lợn trong 1ml siro. Ngày uống 3 lần, mỗi lần trẻ em dưới 1 tuổi uống ½ thìa cà phê, 2-3 tuổi uống 1.1/2 thìa cà phê/lần trên 3 tuổi mỗi lần 2.1/2 thìa cà phê. Có thể dùng dưới dạng thuốc viên, mỗi viên chứa 50mg cao bột mật lợn toàn phần. ngày 3 lần, mỗi lần trẻ em dưới 1 tuổi uống 1 viên, 1-2 tuổi uống 2 viên; 2-3 tuổi uống 3 viên, trên 3 tuổi uống 5 viên

Đơn thuốc có mật lợn hay mật bò

  • Viên mật lợn trị táo bón của Viện đông y: mật lợn chế theo phương pháp của Viện đã giới thiệu ở trên sấy khô tán bột, trộn với tá dược làm thành viên, mỗi viên nhỏ nặng 0,1g. người lớn uống 6-12 viên/ ngày chia làm 1-2 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ hay sáng sớm. Nếu táo bón nhiều có thể uống lúc đầu 20 viên rồi giảm dần xuống.
  • Viên mật của đội điều trị 10 và Bệnh viện Nam Định: Cao mật bò hay mật lợn 100g, lưu hoàng rửa lại 100g, bột hoạt thạch 150g, tinh dầu bạc hà 20 giọt. Cao mật bò chế theo phương pháp giới thiệu trên, thêm các vị thuốc khác vào rồi làm thành viên 0,15g, ngày uống từ 20-30 viên chia làm 2-3 lần uống. Dùng trong vòng 10-30 ngày tuỳ theo bệnh nặng nhẹ. Chữa viêm mật, gan, vàng da, rối loạn tiêu hoá, chậm tiêu, phân sống, táo bón
  • Viên lô đảm (biệt dược Xí nghiệp dược phẩm I): Mỗi viên có cao mật tinh chết 0,5g, lô hội (hoặc phan tả diệp) 0,08g, phenolphthalein 0,05g, tá dược vừa đủ 1 viên. Trị táo bón, ăn uống khó tiêu, do thiếu mật, vàng da, ứ mật, suy gan, nhiễm trùng đường ruột, sỏi mật. Người lớn ngày uống 2-4 viên chia làm 2 lần uống. uống sau bữa ăn, nuốt chửng với một chén nước, không nhai vì rất đắng.

 

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top