Hydrocotyle L. là một chi lớn gồm các loài là cây thảo, phân bố rải rác từ vùng ôn đới ấm đến vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở Việt Nam, có 9 loài.
Rau má lá to phân bố chủ yếu ở vùng núi thuộc khu vực có khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới châu Á, bao gồm Nepal, Mianma, Trung Quốc, Lào, Việt Nam và một số nước khác. Ở Việt Nam, cây cũng chỉ thấy ở vùng núi với độ cao 400 m – 1500 m, ở các tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá và hầu hết các tinh thuộc vùng Tây Bắc và Đông Bắc giáp biên giới Việt – Trung. Cây đặc biệt ưa ẩm, có thể mọc cả trên đất ướt dọc theo các bờ khe suối, hốc đá dưới tán rừng kín thường xanh ẩm, nhất là ở kiểu rừng cây lá rộng núi đá vôi, có nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Cạn… Cây thường xanh tốt quanh năm, ra hoa quả nhiều, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt và có khả năng mọc chồi khỏe ờ tất cả các đốt của phần thân bò sát mặt đất. Cây trồng được bằng các đoạn thân.
Toàn cây.
Theo Foucaud, dịch hãm từ rau má lá to có tác dụng gây ngủ. Dùng ngoài, có tác dụng kích thích cục bộ, nhựa từ cây lá có thể gây viêm màng kết hợp mắt khi tiếp xúc.
Rau má lá to có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh phế nhiệt, tán huyết nhiệt.
Theo kinh nghiệm dân gian, rau má lá to được dùng trong các trường hợp sau:
Ở Ấn Độ, Srilanka, rau má lá to có thể được dùng thay thế rau má. Lá chữa ăn uống khó tiêu, bồn chồn lo lắng, lỵ; cuống lá có mùi thơm cay, chữa đau răng. Ở Trung Quốc, rau má lá to (hồng mã đề thảo) được dùng chữa vết thương ngoài da, ho đờm có máu, cảm cúm. Ở Indonesia, đảo Solomon, rau má lá to cũng được dùng để duốc cá.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh