Sử quân tử là một loại dây leo hay nói cho đúng loại cây mọc tựa vào cây khác, hoặc hàng rào. Lá mọc đối, đơn, nguyên, hình trứng đầu nhọn, phía cuống hơi tròn hình tim, dài 7-9cm, rộng 4-5cm, cuống ngắn. Hoa hình ống, lúc đầu màu trắng, sau chuyển hồng và đỏ, mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đầu cành, dài 4 -10cm. Qủa khô, hình trứng nhọn, dài 35mm, dầy 20mm, có 5 cạnh dọc hình 3 cạnh, có chứa một hạt dài phía dưới rộng, phía đầu hơi mỏng, có 5 đường sống chạy dọc.
Sử quân tử đã được nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.
Tác dụng diệt giun: năm 1935, Perrier thí nghiệm nước sắc sử quân tử ở Việt Nam trên giun đất nặng 20centigam nhận thấy so với đối chứng, giun bị tác dụng của nước sắc sử quân tử, dẫy dụa, sau tê liệt bộ phận, da bong ra, màu nhợt nhạt, mê rõ rệt.
Năm 1947 Chu Đình Xung và Trương Xương Thiệu (Khoa học 20,I: 143 Trung văn) đã thí nghiệm so sánh dung dịch của nước sử quân tử 10% và dung dịch 0,5% kalilorua trên giun đất đều thấy tác dụng như nhau cho nên các tác giả này đã kết luận hoạt chất của sử quân tử là muối cali chứa trong sử quân tử.
Năm 1948, Ngô Vân Thùy và cộng sự (Trung hoa y học tạp chí 34:437-441) báo cáo đã nghiên cứu so sánh tác dụng diệt giun của nhiều vị thuốc đông y (quán chúng, lôi toàn, ô dược, xuyên luyện tử, bách bộ, hắc sửu, bạch sửu..v.v) đã kết luận sử quân tử có tác dụng diệt giun mạnh.
Năm 1950 Hồ Mộng Gia (Trung hoa y học tạp chí 36:619-622) báo cáo đã dùng cồn 95°, cồn 50° để chiết sử quân tử, bã sau khi chiết bằng cồn 90° được chiết bằng nước rồi thí nghiệm tác dụng trên giun đất thấy dịch chiết bằng cồn 95° không có tác dụng: dịch chiết bằng cồn 50°và nước có tác dụng: ức chế và gây mê.
Tác giả còn dùng nhiều dung môi khác nhau để chiết, thì thấy hoạt chất tan trong nước, trong cồn metylic, nhưng không tan trong ete,dầu hỏa, clorofoc, cồn 95°. Sau khi cho lên men để loại bỏ phần đường trong sử quân tử vẫn thấy còn công hiệu.
Năm 1958, căn cứ vào kinh nghiệm nhân dân nói sử quân tử cắt bỏ đầu và cắt hết màng vỏ lụa đi thì không gây nấc, chúng tôi và một số anh em trong bộ môn dược liệu Trường đại học y dược Hà nội đã tiến hành cắt bỏ đầu và bóc màng đi rồi cho ăn sống hoặc sắc uống, đều vẫn thấy có trường hợp gây nấc,khi mới uống không thấy nấc.
Thường sau khi ăn cơm (nếu không uống vào sáng, đến trưa sau khi ăn cơm) thì thấy bắt đầu nấc; uống quá nhiều thì thấy mệt, ngoài ra không thấy hiện tượng nguy hiểm nào khác.
Năm 1960, chúng tôi đã dùng cả lá, vỏ quả, nhân quả giun sắc với nước rồi thí nghiệm trên giun đất đều thấy có tác dụng làm cho giun tê liệt. Trên cơ sở thí nghiệm này, chúng tôi đã dùng nước sắc toàn quả giun không bóc vỏ để chữa giun vẫn có kết quả. Gỉam được động tác bóc vỏ là một việc phức tạp, tuy nhiên vẫn có trường hợp bị nấc (Đỗ Tất Lợi).
Theo Trung hoa y học tạp chí 1952 thì hoạt chất trong sử quân tử là axit quisqualic; muối kali của axit quisqualic trên lâm sàng có tác dụng tương tự santonin.
Độc tính: năm 1924, một nhà nghiên cứu Nhật Bản (Trường kỳ y học hội tạp chí; 2; 471-485) đã dùng dung dịch nước sắc sử quân tử tiêm dưới da chuột bạch; sau vài phút xuất hiện hiện tượng mỏi mệt, hô hấp chậm lại, không đều, sau 1,2 giờ, toàn thân co quắp, hơ hấp đình lại mà chết, tuy nhiên tim còn hơi co bóp. Liều tối thiểu gây chết là 0,02g/kg thể trọng.
Tiêm mạch máu, huyết áp hạ xuống.
Uống vào nhiều, dạ dày và ruột sẽ sưng, đi tả và nấc.
Năm 1926, K.M.Wu (Chemical analysis and animal experimentation of Quisqualis indica Mat. Med J.China 12(2(: 161-170) đã báo cáo độc tính của sử quân tử không cao. Với liều 26,6g/kg cho chó uống thì ngoài hiện tượng nôn và nấc không thấy triệu chứng ngộ độc nào khác. Và sau 10 giờ, trạng thái hoàn toàn trở lại bình thường. Cho chó uống dầu sử quân tử với liều 0,75g/kg thì không thấy nôn mửa, nấc và hơi có tác dụng tẩy.
Năm 1956, Ngô Vân Thùy (Luận văn trích yếu của Hội khoa học sinh lý Trung Quốc: 27 -28) báo cáo cho chuột nhắt và thỏ uống với liều 50-100mg/10g đều thấy chịu thuốc, không thấy hiện tượng ngộ độc.
Thí nghiệm trên lâm sàng năm 1955, Vương Vĩnh Tường và Trương Lập (Trung hoa y học tạp chí 5:456-459) đã báo cáo dùng sử quân tử để chữa bệnh cho 116 học sinh và giáo viên kết quả đạt 68,9%. Các tác giả dùng liều 10g đối với trẻ em dưới 12 tuổi, 20g đối với trẻ em trên 13 tuổi, uống một lần vào buổi sáng. Sau khi uống sử quân tử 3 giờ, uống một liều thuốc tẩy (sunfat natri hay sunfat magie 15g). Một số thấy hiện tượng nấc, buồn nôn, nhức đầu, táo bón. Những hiện tượng này chóng hết.
Năm 1957 Đoạn Ngọc Thanh, Lý Chính Hoa (Dược học học báo 5(2):87-91) báo cáo dùng sử quân tử và muối kali của axit quisquatic điều trị được 240 người: 19 người uống muối kali của axit quisquatic với liều 0,025, 0,075, 0,10 và 0,125g, không uống thuốc tẩy; 69 người uống sử quân tử với liều 10 nhân đối với trẻ em trên 13 tuổi, cũng không uống thuốc tẩy, đã chứng minh muối kali của axit quisquatic với liều 0,125g có tác dụng ra giun với tỷ lệ cao, đạt 82%. Tuy nhiên vẫn thấy hiện tượng phụ là gây nấc.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh