Nhiều tài liệu nghiên cứu về toan táo nhân, nhưng chưa thống nhất.
Có tài liệu (Trung Quốc hoá học tạp chí,1936) nói trong táo nhân có 2 loại phytosterol, một chất có độ chảy 288-290ºC, công thức là C26H42O2, tan trong ête, một chất có độ chảy 259-260ºC, tan trong clorofoc. Ngoài ra còn chứa dầu. Không có ancaloit.
Theo một tài liệu khác (Nhật dược chí, 1940) thành phần chủ yếu là axit betulinic tinh thể hình phiến, tan trong rượu, độ chảy 316-320ºC và betulin C30H28O3. Ngoài ra còn có nhiều vitamin C.
Theo sự nghiên cứu của hệ Dược viện y học Bắc Kinh gần đây, trong nhân hạt táo có 2,52% saponin và có phản ứng ancaloit.
Theo s. Shibata và cộng sự (Phvtochem. 1970,677 và 1974 13, 2829) trong nhân táo – Zizyphus jujuba Mill. var. spinosus Hu hoặc Ziziphus spinosus Hu có 0,1% saponin bao gồm jujubozit A và B với genin là jujubogenin với độ chảy 25-27ºC, αD25 = -36″ (trong cồn êtylic). Khi thuỷ phân jujubozit bằng axit sẽ được jujubogenin. và tiến lên một bước thành chất ebelin lacton có độ chảy 182-185ºC, (α)D = – 140 (trong clorofoc).
Trong lá táo có rutin và quexetin.
Năm 1956, Hồ Mộng Gia đã báo cáo ở Đại hội đại biểu hội sinh lý học Trung Quốc về tác dụng trấn tĩnh của toan táo nhân. Ông đã dùng dung dịch nước nhân hạt táo thụt vào dạ dày và ruột hoặc tiêm vào màng bụng chuột nhắt đã được kích thích bằng cách tiêm dung dịch cafein- bcnzoat natri thì thấy với liều 5g/kg thể trọng có tác dụng trấn tĩnh. Tác dụng này giống như tác dụng của thuốc ngủ bacbituric. Năm 1967, Viện chống lao Hà Nội đã xác minh lá táo có tác dụng chữa viêm phế quản khó thở (Y học thực hành, 146, 8: 3).
Chữa mất ngủ, thần kinh suy nhược: Toan táo nhân (sao đen) 6g, phục linh 5g, xuyên khung 3g, tri mẫu 4g, cam thảo 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.
Chú thích:
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh