Vối rừng tên khoa học là Syzygium cuminii (L.) Skells có công dụng chữa đau bụng, ỉa chảy, kiết lỵ, lợi tiêu hóa, hạt nghiền thành bột uống trị bệnh đái tháo đường. Ở Trung Quốc, cây được dùng chữa lao phổi, suyễn khan (Vỏ sắc uống)
Cây to. Thân có vỏ dày, cành dẹt sau hình trụ, màu trắng mốc. Lá mọc đối, hình trái xoan hay hình trứng, dài 8 – 10 cm, rộng 3-9 cm, gốc tròn hơi thuôn, đầu tù có mũi nhọn ngắn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; lá già mỏng, màu nâu nhạt, có tuyến mờ ở mặt dưới; cuống lá dài 1 – 2 cm.
Cụm hoa mọc ở kẽ những lá đã rụng thành chuỳ thưa; hoa màu trắng; đài có răng nhăn nheo; tràng có 4-5 cánh dính nhau thành một khối hình vuông; nhị rất nhiều; bầu ẩn sâu trong dài.
Quả thuôn, hơi cong, lõm ở đỉnh; hạt 1 hình tròn.
Mùa hoa: tháng 3-8.
Vối rừng có nguồn gốc ở vùng cận nhiệt đới Himalaya. Hiện nay, cây mọc tự nhiên và được trồng rộng rãi ở vùng nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, như Ân Độ, Xrilanca, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Campuchia, Australia và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía nam, từ Quảng Nam, Tây Nguyên đến vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Vối rừng thuộc loại cây gỗ lớn, phân cành sớm và nhiều, ưa sáng, sống được trên mọi loại đất. Ở vùng núi thấp và trung du, cây mọc ở gần các bờ khe suối hoặc ven rừng thứ sinh gần nguồn nước. Tuy nhiên, cây có khả năng chịu hạn tốt khi đã trường thành. Ở một số nơi thuộc Ấn Độ hay Xrilanca, cây sống được cả ở những khu vực lượng mưa một năm chỉ vào khoảng 1000 mm.
Vối rừng ra hoa quả nhiều. Mùa hoa quả của cây có thể thay đổi tuỳ theo vùng. Ví dụ ở Philippin, từ tháng 3 đến tháng 7; ở Java, tháng 7-11. Việt Nam: tháng 3-8.
Hoa thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng. Cây mọc từ hạt, sau 7-8 năm mới bắt đầu có hoa quả, còn ở cây trồng từ cành chiết phải sau 2 – 3 năm. Vối rừng có hoa quả nhiều trong vòng 40 năm. Quần thể cây trồng có nhiều giống phân biệt với nhau bằng quả, khi chín màu tím đen, hay hơi trắng. Cây trồng ở Philippin và Indonesia chủ yếu để lấy quả chín ăn.
Lá, vỏ thân, thu hái quanh năm. Còn dùng quả.
Phần ăn được của quả chứa 83,7% nước, 0,7% protein, 0,3% chất béo, 0,9% sợi, 14% carbonhydrat, 0,4% tro, các chất vô cơ.
Các vitamin gồm vitamin A, thiamin, riboflavin, acid nicotinic, vitamin C, cholin, acid folic, glucose, fructose là 2 đường chủ yếu trong quả chín, không có sacctose, acid malic 0,59%, acid oxalic ít.
Lá vối rừng chứa protein, tanin, tinh dầu có mùi dễ chịu. Tình dầu gồm terpen, dipenten…
Hạt vối rừng chứa protein, tanin, acid ellagic, galic.
Rễ vối rừng chó cahuwas các flavonoid như myricetin.
Hạt của quả vối rừng có tác dụng làm giảm lượng nước tiểu và giảm hàm lượng đường trong nước tiểu, giảm khát do đái tháo đường.
Hạt quả vối rừng dưới dạng hỗn dịch trong nước, với liều 1, 2, 4 và 6g/kg, thấy liều 4g/kg có tác dụng tốt nhất, làm giảm đường huyết 42,6%. So sánh với tolbutamid, liều 250 mg/kg, sau 1 giờ, đường huyết bắt đầu giảm, mạnh nhất sau 3 giờ, giảm 52,1% và kéo dài đến 5 giờ; còn phenformin làm giảm 34,3% và cũng kéo dài được 5 giờ. Nhân hạt có tác dụng hạ đường huyết mạnh hơn hạt và tác dụng tối đa đạt được lúc 4-5 giờ sau khi dùng. Tiêm trong màng bụng liều 1-2 mg/kg hoạt chất (không nêu rõ là hoạt chất gì) phân lập từ hạt quả vối rừng cho chuột cống trắng, thấy lúc đầu đường huyết tăng lên, sau đó giảm và mức giảm bằng 10 – 20% mức đường huyết khi chưa dùng thuốc.
Tolbutamid liều 250 mg/kg không thấy biểu hiện tác dụng, phenformin liều 20 mg/kg đã thấy có tác dụng, còn nhân hạt vối từng làm giảm đường huyết có ý nghĩa thống kê ở chuột cống trắng bị tăng đường huyết do alloxan. Điều đó chứng tỏ thuốc có một tác dụng ngoài tuy, vì alloxan gây tổn thương tế bào bêta đảo Langerhans ở tuỵ, là tế bào chịu trách nhiệm sản xuất ra insulin.
Một nghiên cứu khác dùng nhân hạt vối rừng trong 14 ngày cho chuột cống trắng bị tăng đưòng huyết do alloxan, thấy dưòng huyết, cholesterol huyết thanh và triglycerid huyết thanh đều giảm. Thí nghiệm dùng dạng cao chiết cồn của hạt vối rừng cũng làm hạ đường huyết ở chuột cống trắng dùng alloxan. Qua nghiên cứu đã rút ra 2 nhận xét quan trọng: 1/ Mức giảm đường huyết tương đối ổn định, thậm chí sau khi ngừng dùng cao được 15 ngày. 2/ Đường huyết không bao giờ giảm đến mức bình thường như khi không dùng alloxan, mặc dầu đã dùng đến liều rất cao.
Nhân dân vùng Porto Alegre ỏ Brazil thường dùng lá vối rừng và lá gioi (Syzygiutn jambos (L.) Alston) để chữa đái tháo đường. Họ dùng lá khô hãm hoặc sắc theo tỷ lệ trung bình là 2,5g/lít (từ 0,2g đến 8g/l), uống mỗi ngày 1 lít thay chè, dùng nhiều ngày. Trong một cuộc điều tra 72 người thì 37 người dùng lá vối rừng, 24 người dùng lá gioi, còn 11 người dùng cả 2 loại. Trong số 37 người dùng lá vối rừng, có 15 người dùng lá khô, 7 người đùng lá tươi, còn 15 người vừa dùng lá tươi vừa dùng lá khô. Lá được thu hái vào bất kỳ mùa nào. Một cuộc điều tra khác trên 100 người bị đái tháo đường, có 91 người dã biết dùng các loại chè để chữa, trong đó dùng nhiều nhất là lá gioi quả tròn, sau đó là lá vối rừng.
Acid oleanolic phân lập từ hoa của cây vối rừng cho chuột cống trắng đực uống trong 60 ngày, rồi ghép với chuột cái, thấy khả năng sinh sản của chuột giảm hẳn, nhưng không thấy thay đổi về trọng lượng cơ thể, cũng như trọng lượng của các cơ quan sinh sản. Tiến hành xét nghiệm tổ chức học thấy acid oleanolic làm ngừng sụ sinh tinh trùng, nhưng các tế bào sinh tinh, tế bào Leydig và tế bào Sertoli vẫn bình thường, không bị ảnh hưỏng.
vỏ thân cây vối rùng, cạo bỏ vỏ đen bên ngoài, gĩa nát, ép lấy dịch để thử. Thử in vivo trên hệ phôi gà, dịch ép không có tác dụng ức chế, nhưng thử in vitro dùng màng của túi màng đệm niệu nang (chorioallantoic membranes) phôi gà được 10-11 ngày tuổi, thì dịch ép có tác dụng ức chế sự phát triển của virus. Cao vỏ cây vối rừng cũng có tác dụng ức chế việc nhiễm virus cho động vật thí nghiệm.
Dùng cá hồi Ctenopharyngodon idella 30 – 60 ngày tuổi, dài 2-3 cm, thả vào các dịch có nồng độ vỏ vối rừng khác nhau. Đã xác định được nồng độ làm chết 50% số cá, LC50 là 0,18%.
Vỏ thân, vỏ cành to và lá vối rừng có vị cay, đắng, the, chát, tính ấm, vào kinh tỳ, vị, có tác dụng lợi tỳ vị, tiêu thực, khử ứ trệ, long đờm suyễn, táo thấp. Quả có vị chua, có tác dụng nhuận phế, chỉ khái, tinh suyễn, lợi tiêu hoá, lợi tiểu và thông trung tiện.
Vỏ thân, vỏ cành to vối rừng chữa đau bụng, đầy chướng, ăn không tiêu, táo bón, nôn mửa, lỵ, tiêu chảy. Vỏ vối rừng thường vẫn được đùng thay thế vị hậu phác (Magnolia officinalis Rehd. et Wils.) và gọi là hậu phác nam. Ngày 8 – 12 g, sắc uống, hoặc dùng tươi ép nước uống. Lá vối rừng cũng có thể nấu nước uống như lá vối, giúp tiêu hoá tốt. Dịch ép lá tươi có tác dụng làm săn se để chữa lỵ. Còn dùng chữa đái tháo đường. Ngày 4 – 10g sắc uống. Ở Campuchia, người ta cho quả vối rừng ngon hơn mận, gioi và được bán ở chợ. Hạt quả dược dùng chữa đái tháo đường. Ngày 4 – 8 g, phơi khô tán bột hoặc sắc uống.
Vỏ vối rừng tươi, cạo bỏ vỏ đen, dùng riêng, hoặc phối hợp với hạt quả vối rừng, lượng bằng nhau, giã nát, ép lấy nước. Người lớn mỗi lần 2 thìa cà phê, trẻ em 1/2 – 1 thìa, ngày 4-5 lần, cách nhau 3-4 giờ. Trẻ nhỏ dùng nửa thìa trộn với sữa cho dễ uống.
Vỏ vối rừng, lá thường sơn, thảo quả, lá na, dây thần thông, mỗi vị 4 – 8g, sắc uống.
Hạt quả vối rừng, phơi khô, tán thành bột mịn, ngày 4 – 8 g, dùng nhiều ngày. Có thể dùng cả quả có hạt, phơi khô, tán dập, nấu cao. Một phòng thí nghiệm ở Pháp đã sản xuất một loại thuốc làm hạ đường huyết chế từ cao nước của hạt quả vối rừng và giới thiệu là có tác dụng hạ đường huyết mạnh. Có thể dùng lá, hãm hoặc sắc uống thay chè, ngày 4 – 8g.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh