✴️ Vị thuốc Xấu hổ

A. Mô tả cây

  • Cây nhỏ mọc hoang loà xoà ở ven đường cái, thân có gai hình móc. Lá hai lần kép lông chim, nhưng cuống phụ xếp như hình chân vịt, khẽ động vào lá cụp xuống. Cuống chung gầy, mang nhiều lông, dài 4cm, cuống phụ 2 đôi, có lông trắng cứng. Lá chét 15-20 đối nhỏ, gần như không có cuống.
  • Hoa màu tím đỏ. tụ thành hình đầu trái xoan. Quả giáp dài 2cm, rộng 3mm, tụ thành hình ngôi sao, ở phần giữa các hạt quả hẹp lại, có lông cứng ở mép. Hạt gần như hình trái xoan, dài 2mm, rộng l,5mm.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, không thấy ai trồng. Người ta đào rễ vào quanh năm, rửa sạch đất cát, thái mỏng, phơi hay sấy khô.

C. Thành phần hoá học

  • Từ cây xấu hổ người ta đã lấy ra được một chất ancaloit gọi là mimosin C8H10O4N2 Chất mimosin có độ chảy 231 độ C α=-2100 (H20), cho muối đồng C8H8O4N2Cu. Theo một số tác giả (R. Adams và J.Wibaut) thì mimosin là đồng phân lập thể của leucenol một chất lấy được từ hạt keodậu Leucaena glauca (xem vị này). Tuy nhiên mimosin chưa phải là hoạt chất độc nhất.
  • Trong lá vào tháng 8, hàm lượng selen là 3.000 γ/g và giảm dần đến tháng 12 chi còn 300 γ/g. Trong quả vào tháng 8, hàm lượng selen là 290 γ/ g và sau đó tăng dần tới 1.560 γ/g trong tháng 12.
  • Và tác giả nhận xét rằng lá cây xấu hổ có hàm lượng selen rất cao vào mùa hè rồi giảm nhanh, trong khi đó hàm lượng sclen trong quả lại tăng ( Đàm Trung Bảo và cộng sự 1977, Hội nghi khoa học Trường Đại học dược khoa Hà nội, 1974-1977)

D. Tác dụng dược lý

  • Đàm Trung Bảo và cộng sự đã nghiên cứu một sồ tác dụng dược lý của cây xấu hổ: Tác dụng ức chế thần kinh trung ương: Những kết quả nghiên cứu chứng minh kinh nghiệm trong nhân dân dùng cây xấu hổ chống mất ngủ: Hexobacbital và meprobamat chuyển hoá qua micrôsôm gan để mất tác dụng, bacbitan không chuyển hoá qua gan. Xấu hổ có tác dụng hiệp đồng với hexobacbital, meprobamat đồng thời tăng tác dụng của bibactal. Điều này khẳng định tác dụng ức chế thần kinh trung ương của xấu hổ. Tuy nhiên tác dụng hiệp đồng với babital không mạnh như khi kết hợp cây xấu hổ với meprobamat hay hexobacbital nên các tác giả cho rằng xấu hổ còn ức chế được micrôsôm gan nhờ xúc tác của xytocrôm P 450, có thể ở đây xấu hổ ức chế men hexobacbital hydroxylaza và menprobamat C1)-I oxydaza nên kéo dài thêm giấc ngủ hexobacbital và meprobamat.
  • Tác dụng chấn kinh: Xấu hổ có tác dụng làm chậm thời gian xuất hiện co giật của cacdiazol.
  • Tác dụng giảm đau: Thí nghiệm theo 3 phương pháp: Mâm đồng (ở 56°C), phương pháp Collier (gây đau bằng axetylcolin) và phương pháp Nilsen (kích thích điên) đều thấy có tác dụng rõ rệt.
  • Tác dụng của xấu hổ giải độc ơxii asenơ: Uống xấu hổ cùng một lúc với axit asenơ thì xấu hổ cứu cho chuột khỏi chết do axit asenơ rất rõ rệt, nếu uống trước 24 giờ thì xấu hổ vẫn cứu sống chuột khỏi chết vì axit asenơ. Các thí nghiệm đã chứng minh rằng khi dùng axit asenơ thì hàm lượng SH giảm xuống, và khi dùng xấu hổ thì hàm lượng SH tăng lên, hô hấp tế bào cũng tăng lên.

E. Công dụng và liều dùng

Chỉ mới thấy được dùng trong phạm vi nhân dân. Với những công dụng, dạng và liều dùng như sau:

  1. Lá cây xấu hổ được dùng làm thuốc ngủ và dịu thần kinh. Liều dùng hàng ngày 6-12g dưới dạng thuốc
  2. Rễ cây xấu hổ được dùng chữa bệnh nhức xương. Rễ cây xấu hổ, thái thành từng miếng mỏng phơi khô. Ngày dùng 120g rang sau đó tẩm rượu 35-400 rồi lại rang cho khô. Thêm 600ml nước, sắc còn 200-300ml. Chia số nước còn lại làm 2- 3 lần uống trong ngày. Thường dùng 4-5 ngày thấy kết quả (kinh nghiệm nhân dân ở Diễn Châu. Nghệ An và miển Nam Việt Nam).
    Cần chú ý nghiên cứu thêm.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top