Trong y học cổ truyền không có bệnh danh “tiểu đường”, nhưng đối chiếu với các chứng trạng biểu hiện trên lâm sàng căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát”, một chứng bệnh đã được nói đến rất sớm trong các y thư cổ như Hoàng đế nội kinh, Linh khu, Thiên kim yếu phương... Biểu hiện chủ yếu của chứng bệnh này được người xưa gọi là “tam đa, nhất thiểu”, nghĩa là ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều và sút cân nhanh. Về trị liệu, cổ nhân thường lấy biện chứng “tam tiêu” làm cơ sở, nghĩa là phân chia thành 3 thể: Thượng tiêu (phần trên cơ thể, gồm tâm và phế), Trung tiêu (phần giữa cơ thể, gồm tỳ và vị) và Hạ tiêu (phần dưới của cơ thể, gồm can, thận, tiểu trường, đại trường và bàng quang). Nhưng hiện nay loại này thường chỉ tương ứng với tiểu đường típ I với đặc điểm lâm sàng khởi phát đột ngột, thường gặp ở người dưới 40 tuổi và trẻ em. Còn tiểu đường típ II đa số gặp ở người trên 40 tuổi, có đặc điểm tiến triển âm thầm không bộc lộ rõ các triệu chứng lâm sàng, trên 70% các trường hợp phát hiện là nhờ xét nghiệm máu trong các kỳ khám sức khoẻ định kỳ, bệnh nhân đến với thầy thuốc chủ yếu vì các biến chứng về tim mạch, thần kinh, mắt và nhiễm khuẩn do tiểu dường gây ra. Bởi vậy, phương thức phân loại và biện chứng theo 'tam tiêu' truyền thống tỏ ra chưa hoàn toàn thích hợp với thực tiễn lâm sàng hiện đại.
Theo cổ nhân, tiêu khát phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như bẩm thụ tiên thiên bất túc (di truyền), ẩm thực bất điều (ăn uống bất hợp lý), tình chí thất điều (yếu tố tâm thần kinh), ngoại cảm lục dâm (yếu tố môi trường, nhiễm trùng...), cửu phục đan dược (dùng thuốc bất hợp lý), trường kỳ ẩm tửu, phòng lao bất điều (tửu sắc và lao lực quá độ)...Các nguyên nhân này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm rối loạn công năng các tạng phủ, trong đó đặc biệt là ba tạng tỳ, phế và thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát. Ví như, ăn uống không hợp lý, dùng quá nhiều đồ ăn thức uống béo bổ và khó tiêu khiến cho tỳ vị bị tổn thương, mất khả năng chuyển vận và tiêu hoá thức ăn gây nên tích trệ, lâu ngày hoá nhiệt làm tổn hao âm dịch mà phát sinh thành bệnh. Hoặc như, căng thẳng thần kinh kéo dài làm cho tạng can mất khả năng sơ tiết, can khí uất kết mà hoá hoả, hoả phía trên gây tổn thương âm dịch của phế và vị, phía dưới gây tổn thương âm dịch của thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát…
Cũng như các bệnh lý nội khoa mạn tính khác, đối với chứng tiêu khát, nguyên tắc trị liệu của y học cổ truyền là :
- Điều trị toàn diện, nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất. Toàn diện nghĩa là: (1) Trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng phủ bị bệnh trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng phủ khác; (2) Sử dụng tổng hợp các biện pháp: dùng thuốc và không dùng thuốc, thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng sinh...
- Biện chứng luận trị, nghĩa là phải căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng cụ thể, loại hình và giai đoạn bệnh, đặc điểm về thể chất, giới tính, tuổi tác...của từng người bệnh mà lựa chọn thuốc và các biện pháp trị liệu cho phù hợp. Đây là nguyên tắc trị liệu có tính đặc trưng của y học cổ truyền. Tuy nhiên, hiện nay do sự tác động của đời sống công nghiệp, người ta có xu hướng “biện bệnh luận trị” hơn là “biện chứng luận trị”.
- Chú ý vận dụng các liệu pháp có tính tự nhiên như dược thiện (món ăn - bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh...Nguyên tắc này dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất” của y học cổ truyền: con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ tự nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên. Con người là sản phẩm, là một bộ phận cấu thành của tự nhiên, mọi biến đổi sinh lý và bệnh lý của nhân thể luôn luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của tự nhiên.
Có thể chia là hai biện pháp lớn là dùng thuốc và không dùng thuốc
* Dùng thuốc: thường theo ba phương thức biện chứng luận trị, chuyên bệnh chuyên phương và vận dụng kinh nghiệm dân gian
* Không dùng thuốc: Là sử dụng các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà dược, cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh...Ví như, chế độ ăn nên trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu, tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân nhĩ, hải tảo, tuỵ lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm...; thường xuyên dùng các loại trà dược như khổ qua trà, nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà, cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà...; có thể dùng các loại cháo thuốc như cháo tuỵ lợn, cháo khổ qua, cháo nhị phấn trư đỗ, cháo địa cốt bì ngọc mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân...
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh