ĐỊNH NGHĨA
Cúm là bệnh do virus gây ra, có tỷ lệ tử vong và nhập viện cao, đặc biệt ở những người dưới 65 tuổi. Dịch cúm theo mùa chiếm 25 triệu đến 50 triệu các ca cúm với khoảng 200000 trường hợp nhập viện và hơn 30000 ca tử vong hàng năm ở Mỹ. Nhìn chung, số lượng người chết do cúm cao hơn các bệnh đã có vắc xin phòng ngừa khác.
Đường lây bệnh từ người sang người thông qua hít phải các dịch tiết của những người bị nhiễm cúm khi ho hay sổ mũi. Thời gian ủ bệnh từ 1 – 7 ngày, trung bình 2 ngày. Cụ thể người lớn bị xem là bị nhiễm cúm từ ngày trước trước khi bắt đầu xuất hiện các triệu chứng đến 7 ngày sau khi bệnh khởi phát, trong khi đó trẻ em bị xem là nhiễm cúm trong khoảng thời gian hơn 10 ngày sau khi bệnh bắt đầu biểu hiện. Ngoài ra, virus có thể tồn tại vài tuần đến vài tháng ở những người bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng.
BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Biểu hiện của cúm tương tự như các trường hợp bị bệnh đường hô hấp khác. Triệu chứng của bệnh và hậu quả phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng miễn dịch, đặc điểm virus, hút thuốc lá, bệnh đi kèm, có thai và khả năng miễn dịch trước đó.
Biến chứng của bệnh bao gồm: làm trầm trọng thêm bệnh mắc kèm, viêm phổi do virus, nhiễm khuẩn phổi thứ phát hoặc gây ra các bệnh đường hô hấp khác (viêm xoang, viêm phế quản và viêm tai giữa), bệnh não, viêm tủy ngang (transverse myelitis), viêm cơ, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim và hội chứng Reye.
DẤU HIỆU – TRIỆU CHỨNG
Dấu hiệu – triệu chứng điển hình của cúm bao gồm: sốt nhanh, đau cơ, nhức đầu, mệt mỏi, ho khan, đau họng, viêm mũi. Buồn nôn, nôn, viêm tai giữa thường gặp ở trẻ nhỏ. Dấu hiệu – triệu chứng bệnh thường được cải thiện sau 3 – 7 ngày dù mệt mỏi và ho có thể kéo dài thêm 2 tuần nữa.
XÉT NGHIỆM
CÁCH PHÒNG BỆNH
Bảng 41.1. So sánh 2 loại vacin TIV và LAIV
DỰ PHÒNG CÚM SAU KHI PHƠI NHIỄM
Các thuốc kháng virus có sẵn để dự phòng cúm nên cân nhắcdùng kèm thêm chứ không thay thế cho vắcxin được.
Nhóm Adamantane như Amantadine và Rimantadine hiện không còn được khuyến cáo dùng để dự phòng hay điều trị cúm ở Mỹ vì virus đề kháng thuốc nhanh chóng.
Các chất ức chế neuraminidase như Oseltamivir và Zanamivir có hiệu quả phòng cúm trong cúm mùa và những ai tiếp xúc với người được chẩn đoán bị cúm.
Ở những bệnh nhân chưa tiêm vắcxin cúm mà được dự phòng bằng thuốc chống cúm khi đang trong mùa dịch bệnh thì vẫn nên tiếp tục sử dụng thuốc trong suốt thời gian dịch cúm đang diễn ra.
Điều trị dự phòng cúm bằng thuốc trong mùa dịch cần cân nhắc ở các đối tượng sau:
Chỉ tiêm LAIV sau 48h sau khi ngừng các thuốc kháng virus cúm, và thuốc trị cúm không được dùng trong 2 tuần sau khi tiêm vắc xin LAIV do thuốc ức chế sự nhân lên của virus.
Phụ nữ mang thai nên tiêm phòng TIV cúm hàng năm, nhưng không dùng LAIV. Nhóm adamantane và thuốc ức chế neuraminidase không dùng trong thời kỳ mang thai do thuốc ảnh hưởng đến thai nhi.
Những người suy giảm miễn dịch nên tiêm phòng cúm hàng năm TIV nhưng không dùng LAIV.
MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ
4 mục tiêu chính trong điều trị cúm:
Trong thời đại phải đương đầu với nhiều đại dịch và sự tăng đề kháng thì việc chẩn đoán sớm bệnh cúm mang tính quyết định. Các thuốc kháng virus nên dùng trong vòng 48h sau khi mắc bệnh để đạt hiệu quả cao nhất. Các thuốc như acetaminophen để hạ sốt, kháng histamine để trị viêm mũi có thể dùng đồng thời với thuốc kháng virus. Bệnh nhân bị cúm nên ngủ đủ giấc, giảm hoạt động, uống đủ nước và không nên đi học/làm để tránh lây lan virus. Viên ngậm giảm ho/đau họng, trà ấm hoặc súp có thể dùng để giảm triệu chứng bệnh.
THUỐC ĐIỀU TRỊ
2 nhóm thuốc kháng virus hiện có để điều trị cũng như phòng ngừa cúm bao gồm nhóm Adamantane như Amantadine và Rimantadine, và thuốc ức chế Neuraminidase như Oseltamivir và Zanamivir. Do hiện nay xuất hiện và lan tràn chủng virus cúm A đề kháng với nhóm Adamantane tại Mỹ nên Amantadine và Rimantadine không còn được khuyến cáo để điều trị cúm trừ trường hợp virus nhạy cảm lại với thuốc. Oseltamivir và Zanamivir tác động lên cả virus cúm A và B mặc dù sự đề kháng Oseltamivir trong dịch cúm H1N1 đang gia tăng. Khi dùng trong vòng 48h sau khi khởi phát bệnh thì Oseltamivir và Zanamivir có khả năng giảm thời gian bệnh gần 1 ngày so với giả dược. Hiệu quả của thuốc phụ thuộc rất nhiều vào thời gian bắt đầu điều trị, tốt nhất trong vòng 12h sau khi bệnh khởi phát. Oseltamivir được chỉ định điều trị cho trẻ trên 1 tuổi, trong khi đó Zanamivir dùng cho trẻ trên 7 tuổi. Thời gian điều trị thường là 5 ngày.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Bệnh nhân cần được theo dõi điều trị hàng ngày để cải thiện dấu hiệu, triệu chứng cúm như sốt, đau cơ, nhức đầu, khó chịu, ho khan, đau họng và viêm mũi. Các dấu hiệu và triệu chứng này thường sẽ giảm trong vòng 1 tuần, nếu trên 10 ngày không giảm hay sau 7 ngày bệnh nặng hơn thì nên gặp bác sĩ bởi vì có thể đó là triệu chứng của nhiễm khuẩn thứ phát.
Nguồn: Pharmacotherapy Handbook 8th edition (2012), Barbara G.Wells et al, Section 8, Chapter 41.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh