Bệnh phế cầu khuẩn là một bệnh lý phổ biến và thường là nhiễm trùng nhẹ, nhưng đôi khi nó có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Chúng bao gồm nhiễm trùng tai giữa, nhiễm trùng máu, viêm phổi hoặc viêm màng não do vi khuẩn.
Vi khuẩn Streptococcus pneumoniae (S. pneumoniae), còn được gọi là phế cầu khuẩn, gây ra bệnh phế cầu khuẩn.
Bệnh phế cầu khuẩn xâm lấn là một tình trạng đe dọa tính mạng gây tử vong trong 10% các trường hợp. Người già và những người mắc bệnh lý tiềm ẩn có nguy cơ cao dẫn đến các biến chứng nguy hiểm hơn những người khác.
Tiêm phòng thường xuyên có thể ngăn ngừa nhiều bệnh do phế cầu khuẩn và các biến chứng tiềm ẩn có thể phát sinh.
Có hai loại bệnh phế cầu khuẩn chính: không xâm lấn và xâm lấn và không xâm lấn thì ít nghiêm trọng hơn.
Những bệnh này xảy ra ở bên ngoài các cơ quan chính hoặc máu. S. pneumoniae có thể lây lan từ mũi và cổ họng đến đường hô hấp trên và dưới. Các vi khuẩn có thể gây ra:
Bệnh phế cầu khuẩn xâm lấn (IPD) nghiêm trọng hơn loại không xâm lấn và xảy ra bên trong cơ quan chính hoặc trong máu của người. Những ví dụ bao gồm:
Các nhiễm trùng khác có thể xảy ra là:
Tất cả IPD đều cần điều trị y tế khẩn cấp.
Khi chẩn đoán bệnh phế cầu khuẩn, bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng và tiến hành thăm khám lâm sàng. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và phần nào của cơ thể bị ảnh hưởng, bác sĩ cũng có thể đề nghị một số xét nghiệm.
Các xét nghiệm có thể bao gồm:
Chụp X-quang ngực: Hình ảnh được tạo ra bởi tia X có thể cho thấy bóng mờ gợi ý viêm phổi, hoặc dịch trong khoang màng phổi hoặc cũng có thể là dấu hiệu của ổ mủ gọi là tràn mủ màng phổi.
Xét nghiệm: Xét nghiệm dịch não tủy (CSF) bằng cách chọc dò tủy sống có thể phát hiện viêm màng não. Bác sĩ có thể sẽ làm kiểm tra đàm, cộng với dịch lấy từ phổi, khớp, xương, quanh tim hoặc dịch từ ổ áp xe. Nếu nhiễm trùng có thể diễn tiến nghiêm trọng, các bác sĩ có khả năng bắt đầu điều trị và kê một đợt kháng sinh trước khi họ có được kết quả từ các xét nghiệm này.
Bất cứ ai cũng có thể mắc bệnh phế cầu khuẩn, nhưng một số người có nguy cơ nhiễm trùng hoặc biến chứng cao hơn những người khác. Những người có nguy cơ cao hơn bao gồm:
Vi khuẩn S. pneumoniae thường gặp ở họng và mũi của trẻ em. Vi khuẩn có thể lây lan qua các giọt bắn trong không khí, ví dụ, khi một người bị nhiễm trùng ho hoặc hắt hơi. Các vi khuẩn này không lây lan qua thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm.
Hầu hết những người tiếp xúc với vi khuẩn mà không có triệu chứng vì hệ thống miễn dịch của họ đã ngăn chặn sự di chuyển của vi khuẩn đến một bộ phận khác của cơ thể.
Tuy nhiên, nếu một người có hệ thống miễn dịch yếu, vi khuẩn có thể di chuyển từ cổ họng đến phổi, máu, các xoang, tai giữa hoặc não. Điều này có thể dẫn đến nhiễm trùng nghiêm trọng. Một hệ thống miễn dịch yếu có thể gặp ở những người:
Có ít nhất 90 chủng S. pneumoniae và không có loại vắc-xin nào có thể chống lại tất cả chúng. Tuy nhiên, vắc-xin có thể giúp ngăn ngừa nhiễm trùng bởi những chủng vi khuẩn phổ biến nhất. Hai loại vắc-xin được biết đến là:
Các bác sĩ khuyên nên tiêm vắc-xin định kỳ để bảo vệ trẻ em và người lớn tuổi khỏi các bệnh phế cầu khuẩn.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyến cáo các loại vắc-xin sau:
Sau khi tiêm, mọi người có thể thấy vài vết đỏ và phù nề tại chỗ tiêm và sốt nhẹ. Những triệu chứng này thường biến mất nhanh chóng và thường không nghiêm trọng. Bác sĩ có thể cho lời khuyên nhiều hơn đối với những người nên được tiêm phòng và tần suất ra sao.
Những ai đã có phản ứng dị ứng nghiêm trọng với PPSV23, PCV13 hoặc PCV7, đây là phiên bản cũ của vắc-xin liên hợp, dù một liều cũng không nên có thêm một liều khác. Tuy nhiên, phản ứng dị ứng nghiêm trọng là rất hiếm.
Những người đang có bệnh lý nhiễm trùng khác mức độ trung bình hoặc nặng nên chủng ngừa khi tình trạng bệnh của họ được cải thiện. Các vắc-xin không thể gây bệnh phế cầu khuẩn vì chúng bao gồm các thành phần từ vỏ vi khuẩn.
Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào cách vi khuẩn tác động đến từng cá thể.
Thông thường, một người sẽ hồi phục sau khi bị nhiễm phế cầu khuẩn nhẹ mà không cần điều trị. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bác sĩ sẽ khuyên dùng kháng sinh để ngăn ngừa biến chứng xảy ra.
Bác sĩ sẽ kê toa thuốc kháng sinh cho IPD. Bác sĩ có thể kê đơn thuốc kháng sinh phổ rộng ngay lập tức, trước khi tìm ra chính xác vi khuẩn nào gây bệnh, vì chờ kết quả có thể gây nguy hiểm. Nếu các xét nghiệm chỉ ra vi khuẩn nào gây bệnh, bác sĩ có thể thay đổi kháng sinh để nhắm vào mục tiêu vi khuẩn cụ thể đó.
Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng mà người bệnh có thể phải dùng kháng sinh bằng đường uống và cả tiêm tĩnh mạch (IV). Đề kháng kháng sinh có nghĩa là một số loại kháng sinh không còn tác dụng đối với một số người và một số bệnh, và vì vậy bác sĩ có thể kê đơn kháng sinh phối hợp.
Một số người mắc bệnh nặng hơn sẽ cần phải nhập viện. Nếu có các triệu chứng nghiêm trọng, người bệnh có thể cần bổ sung thêm oxy và các hình thức điều trị khác, tùy thuộc vào loại nhiễm trùng mà họ có.
Có nhiều loại bệnh phế cầu khuẩn khác nhau. Tác động của những bệnh này phụ thuộc vào loại vi khuẩn và sức khỏe của người mà nó tác động đến. Một số bệnh có thể nhẹ và qua khỏi mà không cần điều trị, hoặc cũng csó thể trở nên trầm trọng và đe dọa đến tính mạng.
Phương pháp điều trị là dùng kháng sinh, nhưng tiêm vắc-xin là điều cần thiết để ngăn ngừa các loại bệnh phế cầu khuẩn ở trẻ em, người già và những người có hệ miễn dịch yếu.
Tìm hiểu thêm về Viêm phế quản, viêm phổi
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh