✴️ Dịch hạch: bệnh truyền nhiễm nguy hiểm

Dịch hạch là gì?

Bệnh lý truyền nhiễm bởi vi khuẩn Yersinia pestis được gọi là dịch hạch. Con người nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ các loại động vật gặm nhấm như thỏ, chuột… thông qua vật trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn.

Trên lâm sàng, có nhiều thể của bệnh dịch hạch, bao gồm: thể hạch, thể phổi, thể não, thể nhiễm khuẩn huyết. Thể hạch có tỷ lệ 90% và chiếm đa số.

Khoảng thời gian dịch hạch bùng phát mạnh mạnh nhất là lúc thời tiết hanh khô tạo điều kiện cho chuột và bọ chét phát triển. Thế nhưng không loại bỏ việc vẫn ghi nhận dịch hạch trong các khoảng thời gian khác trong năm.

Rất nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới bị dịch hạch. Có tới 2.845 trường hợp tử vong trong số 38.310 trường hợp mắc dịch hạch đến từ 25 quốc gia trên thế giới từ năm 1989 – 2003. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 10.000 trường hợp mắc bệnh từ năm 1960 – 1970, đứng đầu thế giới.

Sau khi lành bệnh, người mắc bệnh dịch hạch có thể miễn dịch nhưng tình trạng miễn dịch chỉ mang tính chất tương đối, không thể bảo vệ được người bệnh trước sự tấn công của vi khuẩn với số lượng lớn.

Nguyên nhân gây bệnh dịch hạch

Vi khuẩn dịch hạch Yersinia pestis là nguyên nhân chính gây dịch hạch. Vi khuẩn này thực chất là một loại trực khuẩn Gram âm, thuộc họ Enterobacteriaceae và có thể bị tiêu diệt ở nhiệt độ 550 độ C trong thời gian 30 phút, ở 1000 độc C trong thời gian 1 phút và tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thường dùng.

Vi khuẩn dịch hạch lây qua vật trung gian là bọ chét

Dấu hiệu bệnh dịch hạch

Theo từng thể lâm sàng mà dấu hiệu dịch hạch cũng khác nhau:

Thể hạch

Thể hạch là thể bệnh phổ biến nhất. 

2 – 5 ngày là khoảng thời gian trung bình của giai đoạn ủ bệnh, có thể kéo dài từ vài giờ đến 8 – 10 ngày, người bệnh chưa có dấu hiệu lâm sàng gì.

Ở giai đoạn khởi phát, người bệnh sẽ có triệu chứng:

  • Đang khỏe mạnh đột ngột cảm thấy mệt mỏi
  • Nhức đầu
  • Chóng mặt
  • Buồn nôn
  • Sốt cao
  • Rét run
  • Đau nhức khắp người
  • Đau nhiều ở những vị trí sắp sưng hạch

Ở giai đoạn toàn phát, xuất hiện sau giai đoạn khởi phát vài giờ hoặc 1 – 2 ngày, triệu chứng đặc trưng là viêm hạch ở những vị trí liên quan đến khu vực bị đốt bởi bọ chét và nhiễm trùng nhiễm độc nặng nề.

Hạch viêm sẽ sưng to, hóa mủ, tự vỡ và chảy ra mủ lẫn máu nếu không được điều trị sớm. Vết thương sẽ lâu lành và thường để lại sẹo co rúm, rất mất thẩm mỹ. Vùng bẹn, nách, cổ, dưới hàm, dọc cơ ức đòn chũm là các vị trí thường gặp nhất.

Toàn thân bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc nhiễm trùng nặng khi ở giai đoạn toàn phát:

  • Sốt: thường sốt cao liên tục hoặc dao động. Bệnh càng nặng sốt càng cao.
  • Nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi
  • Li bì, hốt hoảng, có thể có mê sảng
  • Da niêm mạc xung huyết
  • Môi khô, lưỡi bẩn, trắng
  • Tim đập nhanh
  • Thở nhanh
  • Nước tiểu ít, đậm màu
  • Tiêu chảy

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết

Bệnh dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết có biểu hiện khác với thể hạch, tình trạng này nhiễm trùng nhiễm độc ngay cả khi hạch ngoại vi chưa viêm.

Cụ thể các triệu chứng lâm sàng sẽ là:

  • Sốt cao, trên 40 độ, kèm rét run
  • Trong các trường hợp nặng hơn, người bệnh bị lích động, mê sảng hoặc li bì
  • Rối loạn hô hấp và tim mạch
  • Bụng chướng, tiêu chảy
  • Xuất huyết da, niêm mạc và các cơ quan

Dịch hạch gây tỷ lệ tử vong cao, trong vòng 1 – 2 ngày đầu có thể tử vong, gọi là “dịch hạch tối cấp”. Thể nhiễm khuẩn huyết có thể tiên phát hoặc thứ phát sau dịch hạch thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị.

Dịch hạch thể phổi

Sau thời gian ủ bệnh ngắn, bệnh khởi phát đột ngột, chỉ sau một vài giờ các triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc bắt đầu xuất hiện và nặng dần lên:

  • Sốt rất cao, trên 40 độ, rét run
  • Mệt mỏi, nhức đầu
  • Mạch nhanh, huyết áp giảm
  • Khó thở, thở nhanh nông. Ho nhiều, có đờm và máu, chứa nhiều vi khuẩn

Dịch hạch thể phổi thứ phát sau thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết thường gặp hơn thể phổi tiên phát, có tiên lượng nặng hơn với tỷ lệ tử vong cao trong vòng 1 đến 2 ngày đầu của bệnh.

Thể da

Biểu hiện của dịch hạch thể da chỉ lâm sàng tại chỗ: tại vị trí vi khuẩn xâm nhập các nốt dát xuất hiện, sau tiến triển thành mụn nước rồi mụn mủ lẫn máu, khi chạm vào bệnh nhân thấy rất đau. Vùng da xung quanh mụn mủ xung huyết, thâm nhiễm, có gờ cao. Khi vỡ, các mụn mủ để lại vết loét với đáy thâm nhiễm vàng, phủ vảy đen. Các vết loét lâu lành và chậm liền sẹo.

Bệnh dịch hạch lây truyền qua con đường nào?

Các con đường lan truyền của bệnh dịch hạch sẽ là:

Qua trung gian bọ chét

Con đường phổ biến nhất là lây qua trung gian bọ chét, lây qua đường máu.

Bọ chét hút máu của vật chủ (chuột), vi khuẩn gây dịch hạch sẽ nhân lên trong tiền dạ dày của bọ chét làm tắc nghẽn đường tiêu hóa.

Khi vật chủ của bọ chét chuyển sang người, vi khuẩn sẽ theo vết đốt vào cơ thể vật chủ mới và gây bệnh. Sự lan truyền bệnh sang người chủ yếu từ các loài động vật gặm nhấm như chuột, thỏ… Ở Nam Phi, sự lây lan trực tiếp từ người sang người vẫn xảy ra thông qua bọ chét Pulex irritans.

Lan truyền trực tiếp

Không cần sự có mặt của vật trung gian truyền bệnh như bọ chét, dịch hạch vẫn có thể lây lan từ vật chủ bệnh sang vật chủ lành.

Đường lan truyền trực tiếp bao gồm:

  • Hô hấp: hít phải vi khuẩn dịch hạch tồn tại trong không khí do tiếp xúc với dịch hạch thể phổi hoặc vật chủ chết vì dịch hạch.
  • Tiêu hóa: vì vi khuẩn dịch hạch dễ bị tiêu diệt khi đun sôi, nấu chín nên đây là đường lan truyền ít gặp
  • Da, niêm mạc: vi khuẩn dịch hạch có thể xâm nhập trực tiếp qua cả da lành và các vết thương hở trên da.

Đường lây truyền của bệnh dịch hạch

Đối tượng nguy cơ bị dịch hạch

Nguy cơ mắc dịch hạch sẽ tăng cao nếu có các yếu tố sau đây:

  • Môi trường sống ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh
  • Sống trong các khu vực bệnh dịch hạch lưu hành
  • Thường xuyên tiếp xúc với các loài động vật gặm nhấm
  • Sức đề kháng của cơ thể suy yếu

Dịch hạch có thể phòng ngừa bằng cách nào?

Để phòng ngừa bệnh dịch hạch có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa sau đây:

  • Diệt chuột: định kỳ mỗi năm từ 1 đến 2 lần nên diệt chuột tương ứng với khoảng thời gian sinh sản của loài vật này. Sử dụng các loại hóa chất diệt chuột như Warfarin, Brodifacou. Chỉ sử dụng các dạng thương phẩm đã được cấp phép.
  • Diệt bọ chét bằng các loại hóa chất được Bộ Y tế cấp phép như permethrin, vectron, diazinon.
  • Nên tiến hành kết hợp diệt bọ chét ngay sau khi diệt chuột khi có dịch hạch. Sử dụng hộp mồi Kartman chứa hóa chất dạng bột để kết hợp diệt chuột và bọ chét. Cần kiểm tra hộp thường xuyên để bổ sung hóa chất.
  • Tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường: đặt bẫy, nuôi mèo, phá vỡ các hang ổ của chuột; bố trí, sắp xếp hàng hóa, nhất là lương thực thực phẩm hợp lý.
  • Luôn chuẩn bị đầy đủ thuốc điều trị, hóa chất và nhân lực, sẵn sàng đối phó nếu dịch bệnh xảy ra.

Tiêm vắc-xin EV là biện pháp phòng bệnh dịch hạch được chỉ định cho những người sống trong ổ dịch nhưng chưa có miễn dịch hoặc người phải di chuyển vào vùng có dịch lưu hành.

Cần theo dõi chặt chẽ những người tiếp xúc với người mắc bệnh dịch hạch và điều trị dự phòng khẩn cấp với streptomycin 1g/ngày x 5 ngày hoặc tetracyclin 1g/ngày x 5 ngày.

Xác chết của bệnh nhân tử vong do dịch hạch cần được quấn bằng vải tẩm chloramine 5%, đặt trong quan tài có rắc vôi bột và chôn cất dưới lòng đất ở độ sâu 2m hoặc hỏa táng.

Các biện pháp chẩn đoán bệnh dịch hạch

Không thể chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng đã đề cập để khẳng định chẩn đoán một trường hợp mắc bệnh dịch hạch mà cần sự phối hợp của các xét nghiệm cận lâm sàng xác định sự hiện diện của vi khuẩn.

Để làm xét nghiệm, các loại bệnh phẩm có thể thu thập bao gồm mủ từ hạch viêm, máu, đờm và các chất tiết vùng họng, huyết thanh của chuột hoặc bọ chét.

Các phương pháp xét nghiệm có thể được chỉ định bao gồm:

  • Nhuộm soi vi khuẩn trực tiếp
  • Cấy và phân lập vi khuẩn
  • Phát hiện kháng nguyên F1 của vi khuẩn dịch hạch
  • Miễn dịch huỳnh quang

Vi khuẩn dịch hạch

Điều trị dịch hạch

Có thể điều trị dịch hạch bằng các loại thuốc kháng sinh sẵn có khi được phát hiện sớm. Bệnh có nguyên tắc điều trị chính là:

  • Khi được chẩn đoán mắc bệnh dịch hạch cần điều trị ngay lập tức
  • Tiến hành thành lập các khu vực cách ly người bệnh: có thể là trạm y tế xã, khoa truyền nhiễm của bệnh viện hoặc một phòng điều trị cách biệt với các khu vực điều trị khác
  • Bên cạnh việc sử dụng kháng sinh đặc hiệu theo chỉ định của bác sĩ cần kết hợp với điều trị nâng đỡ toàn trạng.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top