Năm 2010, tôi lại ghé TP.HCM.
Tôi không thích một thành phố đông đúc và chen chúc người, cái nóng hầm hập phả lên làn da đến khó chịu. Chẳng đến mức túa mồ hôi nhưng cũng làm một đứa trẻ như tôi muốn rệu rã. Anh tài xế thỉnh thoảng ghé nhìn từ gương chiếu hậu, tò mò hỏi: "Em gái bị sao dzậy, dì?".
Mẹ cũng chẳng ngại ngần kể lại câu chuyện với một người lạ nhiệt tình. Anh tài xế vừa nghe vừa gật gù chép miệng: "Thiệt, mấy thằng ông trời giờ chạy xe ra đường có thèm dòm ai đâu. Nó ưng chạy sao nó chạy hà". Chốc lát lại tặc lưỡi thương xót: "Tội con nhỏ dễ sợ! Mới có mười tám chớ nhiêu...".
Suốt chặng đường nghe anh rôm rả trò chuyện, khi thì hỏi mẹ con tôi tới bệnh viện nào và ở lại bao lâu, đôi lúc im lặng để suy nghĩ điều gì đó rồi lại ồ lên khuyên mẹ nên đưa tôi tới nơi này nơi kia. Khi tới nơi, anh đậu xe lại bên đường, nhiệt tình xách theo mớ hành lý, đưa tôi và mẹ vào bệnh viện làm thủ tục giấy tờ.
Mẹ ái ngại và hối thúc anh rời đi, nhưng anh vẫn nhiệt tình chạy lăng xăng khắp nơi như anh con trai trong nhà vậy. Khi tôi đã nằm yên vị trên băng ca để chờ các thủ tục tiếp theo, anh mới vội vàng từ biệt mặc cho mẹ nài nỉ gửi anh thêm ít tiền vì đã làm lỡ của anh mấy cuốc xe. Bóng anh chìm vào đám đông, mẹ tôi bất chợt tặc lưỡi: "Cái thằng tính tình thiệt... cưng ghê".
Lúc ấy, tôi vẫn chưa biết được rằng ở thành phố này không phải chỉ riêng mình anh mà ai ai cũng đều có sẵn trong người cái sự hồn hậu và chân thành đến dễ cưng như thế.
Kể như chị y tá trưởng phòng bệnh tôi nằm vậy. Chị giống như một người thân trong nhà hơn cô y tá nơi bệnh viện. Cứ liên tục ghé qua cái phòng bệnh kê sáu chiếc giường trong một ngày, lặp đi lặp lại những điều nghe đã quen tai nhưng chẳng ai chán ghét.
Hỏi người này tình hình vết mổ ra sao, có còn thấy đau ở chỗ nào. Tỉ mỉ dặn dò từng người trong phòng bệnh đủ thứ. Mỗi lần chích thuốc, như sợ làm đứa em đau, tôi lúc nào cũng nghe chị rỉ rả.
"Chị chích mà có đau thì cưng la lên cho chị hay nghen!".
"Có mệt ở đâu thì báo chị hay nghen!".
"Cưng phải ăn uống để lấy sức mổ nghen!".
Tôi yêu cái sự dễ thương mà ngày nào chị đều ghé qua giường bệnh, "cưng" tới "cưng" lui. Cũng yêu cái sự dịu dàng và tử tế của mấy vị y bác sĩ nơi đây khiến cho bệnh viện trở nên tràn ngập những thân quen và ấm áp.
Kể là mấy dì lớn tuổi mỗi ngày đều cẩn thận đến từng phòng gọi người nhà bệnh nhân ra lấy cháo, lấy cơm từ thiện. Hay bác xe ôm trước cổng chẳng khó chịu khi không bắt được khách mà còn tận tình chỉ dẫn tôi và mẹ lên chuyến xe nào, trước lúc mẹ con tôi lên xe rời đi vẫn còn giọng nói vang lên từ đằng xa nhắc nhở: "Cô bỏ cái dây chuyền vô trong áo khoác rồi kéo lên đi, hông mấy thằng "cô hồn" nó "đua" đó cô ơi".
Tôi nhìn mẹ, mẹ lại nhìn tôi, trộm cười. Người thành phố họ tử tế với nhau đến mức dung dị như thân quen lắm. Tôi và mẹ là khách lạ, thế nhưng họ cũng dành cho chúng tôi những điều rất thật và chân tình.
Năm mười tám ghé lại thành phố ấy, tôi mang theo vài vết thương và những sợ sệt. Sợ một thành phố lạ lẫm, sợ cái nhìn soi mói từ người lạ. Thế nhưng người thành phố lại vỗ về tôi một cách tử tế và dịu dàng. Họ gọi tôi là cưng, chép miệng thương cảm cho cô gái lạ. Vẫn với chất giọng đặc biệt ngày xưa ấy tôi đến, chỉ khác là giờ đây họ dùng nó để dỗ dành và ve vuốt những lo sợ trong tôi.
Thế nhưng người Sài Gòn lại là người quen, với đứa trẻ đã từng sợ sệt như tôi hay bất kỳ ai đều dành trọn những gì tử tế và nhiệt tình nhất. Có lẽ do vậy nên người ta ghé đến thành phố rồi lại chẳng nỡ rời đi. Giờ đây, nếu có ai hỏi về Sài Gòn, tôi sẽ chẳng đắn đo mà trả lời: người Sài Gòn dễ... cưng lắm. Bởi một lẽ, ở đây họ cưng nhau như cái cách gọi nhau là "cưng" vậy.
(TUỔI TRẺ)