Màng phổi là phần bao bọc toàn bộ bề mặt phổi, cấu tạo bao gồm 2 lá là lá thành và lá tạng. Các bệnh lý và biến chứng trên màng phổi rất đa dạng, trong đó lao màng phổi là trường hợp gặp nhiều nhất. Lao màng phổi là một dạng lao ngoài phổi, đứng thứ hai trong số các thể lao dễ gặp nhất (sau lao hạch bạch huyết).
Trong các vấn đề liên quan đến màng phổi thì bệnh lao màng phổi là trường hợp gặp nhiều nhất ở người trẻ
Theo nhiều nghiên cứu khảo sát trên thế giới và ở Việt Nam thì lao phổi chiếm khoảng 25 - 30% trong tất cả các thể lao ngoài phổi, khoảng 3 - 5% các bệnh lý về phổi hiện nay. Không giới hạn bất kỳ độ tuổi nào bởi ai cũng có thể là đối tượng của bệnh lao màng phổi, tuy nhiên người trẻ trong độ tuổi 16 - 30 chiếm tỷ lệ mắc bệnh cao nhất.
Mycobacterium Tuberculosis được xem là tác nhân chính gây ra lao màng phổi. Đây là một loại vi khuẩn hiếu khí hoàn toàn, có tính kháng cồn và acid, phát triển chậm, sau khoảng từ 20 - 24 giờ mới sinh sản một lần. Vi khuẩn khi xâm nhập vào cơ thể sẽ gây nên các tổn thương, tại các vị trí này, các quần thể có thể chuyển hóa thành nhiều dạng khác nhau.
Mycobacterium Tuberculosis là tác nhân chính gây nên bệnh lao màng phổi
Các chủng vi khuẩn thuộc họ Mycobacteriaceae có khả năng kháng lại các thuốc điều trị một số thể lao như lao phổi, lao hạch. Do đó khi sử dụng thuốc, bệnh nhân cần phải lưu ý đến đặc điểm này để tránh trường hợp thuốc không phát huy tác dụng điều trị. Bên cạnh đó, những tác động của môi trường có thể thay đổi khả năng hình thành lao màng phổi của vi khuẩn.
Mức độ nhiễm bệnh và khả năng gây bệnh của cơ thể phụ thuộc vào sức đề kháng của từng người và độc lực của vi khuẩn. Vi khuẩn lao Mycobacterium Tuberculosis có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua đường hô hấp, tiêu hóa, từ mẹ sang con hoặc do tiếp xúc với đờm, nước bọt hay các giọt bệnh phẩm li ti trong không khí khiến cho người bình thường bị nhiễm bệnh.
Sau khi đã vào được cơ thể, vi khuẩn sẽ bắt đầu khu trú, sinh sản và phát triển rối gây nên các tổn thương ban đầu ở phần ngoại vi của phổi.
Trong khoảng thời gian này, cơ thể cũng sẽ huy động các cơ chế miễn dịch bao gồm đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính, hoặc các tế bào lympho để tiêu diệt vi khuẩn. Có hai trường hợp xảy ra:
Lúc này, cơ thể chuyển từ giai đoạn lao sơ nhiễm sang lao tái phát và bắt đầu xuất hiện các triệu chứng điển hình. Các vi khuẩn sau khi trải qua giai đoạn sơ nhiễm thường khu trú phần dưới hoặc đỉnh phổi. Khi các hoạt lao dần hóa lỏng và hình thành các hang góp phần đẩy nhanh sự lây lan của vi khuẩn sang các cơ quan khác.
Để chẩn đoán bệnh lao phổi, các bác sĩ cần phải thực hiện các phương pháp lâm sàng và cận lâm sàng sau:
Khám lâm sàng thông qua các triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân như: người bệnh đột ngột bị đau, tức ngực dữ dội kèm theo cơn khó thở, ho và sốt từ 39 - 40 độ. Các cơn đau và sốt diễn ra với tần suất tăng dần, mạch đập nhanh, người xanh xao, gầy yếu và mệt mỏi, đi tiểu ít. Giai đoạn đầu bệnh nhân chỉ ho khan nhưng càng về sau, biểu hiện ho nhiều hơn, ho có đờm, ho nhiều khi thay đổi tư thế hoặc vào lúc trời gần sáng.
Các phương pháp cận lâm sàng được chỉ định để đưa ra kết luận chính xác nhất sau khi các chẩn đoán ban đầu dựa trên triệu chứng ở người bệnh. Để kiểm tra xem có vi khuẩn lao xuất hiện trong phổi hay không thì các bác sĩ sẽ cho chỉ định xét nghiệm tìm vi khuẩn lao và không lao điểm hình thông qua bệnh phẩm là đờm, dịch từ phế quản hoặc dịch dạ dày. Các xét nghiệm được sử dụng để tìm vi khuẩn lao hiện nay sẽ bao gồm:
Kết quả xét nghiệm lao màng phổi có chính xác hay không phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật lấy bệnh phẩm và trang thiết bị xét nghiệm. Việc tiến hành các xét nghiệm tìm vi khuẩn gây bệnh đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ kỹ thuật cao, tỉ mĩ cũng như máy móc hiện đại nên có rất ít cơ sở áp dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh