Lo lắng đề cập đến nhiều vấn đề tâm thần, bao gồm trạng thái có ý thức của một người lo lắng về sự kiện không mong muốn trong tương lai hoặc sợ hãi về các tình huống thực tế. Lo lắng và sợ hãi có liên quan mật thiết với nhau. Để phân biệt sự khác nhau giữa 2 trạng thái này, các chuyên gia đã chỉ ra, sợ hãi là một phản ứng thích ứng với mối đe dọa thực tế, trong khi lo lắng là một cảm xúc lan tỏa, đôi khi là một phản ứng vô lý hoặc thái quá đối với mối đe dọa trong hiện tại hoặc tương lai.
Xác định ranh giới giữa thái cực của hành vi bình thường và bệnh lý tâm thần là một bài toán nan giải bao trùm tất cả các ngành tâm thần học. Trong trường hợp lo lắng, việc thiết lập giới hạn giữa hành vi bình thường và bệnh lý là đặc biệt khó khăn vì khi nhẹ, lo lắng đóng vai trò thích ứng trong sự phát triển của con người, báo hiệu rằng cần phải có hành động tự bảo vệ để đảm bảo an toàn. Nhưng khi lo lắng trở nên nghiêm trọng và kéo dài liên tục thì nó lại là vấn đề tâm thần rất phức tạp.
Rối loạn lo âu là cảm giác lo lắng, sợ hãi kéo dài không biến mất, thậm chí trở nên tồi tệ hơn theo thời gian, có thể cản trở các hoạt động hàng ngày ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu suất công việc và các mối quan hệ,…
Nguyên nhân của rối loạn lo âu hiện chưa được biết rõ nhưng các nhà khoa học tin rằng, nhiều yếu tố kết hợp với nhau gây ra chứng rối loạn lo âu:
Rối loạn lo âu là một nhóm các tình trạng liên quan, mỗi thể bệnh có những triệu chứng riêng biệt. Nhưng tất cả các loại rối loạn lo âu đều có một điểm chung là sợ hãi hoặc lo lắng dai dẳng, quá mức trong những tình huống không đe dọa. Mọi người thường gặp một hoặc nhiều triệu chứng sau:
Theo các chuyên gia, có nhiều loại lo âu và xác định đúng dạng rối loạn lo âu của bạn là một phần quan trọng trong việc điều trị. Hãy xem các loại rối loạn lo âu phổ biến để tìm hiểu về cách bạn có thể bắt đầu phục hồi sức khỏe tâm thần của mình.
4.1. Rối loạn lo âu tổng quát GAD – Rối loạn lo âu lan tỏa
Những người bị rối loạn lo âu tổng quát (GAD) thường có biểu hiện lo lắng thái quá. Tình trạng này diễn ra trong hầu hết các ngày trong tuần và ít nhất 6 tháng. Những điều khiến người bệnh lo lắng có thể là về một số vấn đề như sức khỏe, công việc, các mối quan hệ xã hội hoặc sự việc… Nỗi lo lắng, sợ hãi rất phong phú về nội dung và có thể gây ra nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ.
Tuổi khởi phát GAD thường muộn hơn so với hầu hết các rối loạn lo âu khác, mặc dù nhiều bệnh nhân cho biết họ đã lo lắng trong nhiều năm. Hơn nữa, GAD có thể đi kèm với các triệu chứng khác, nhưng triệu chứng chính là trạng thái lo lắng mạn tính.
Các triệu chứng rối loạn lo âu tổng quát bao gồm:
4.2. Rối loạn hoảng sợ – Bệnh tâm thần hoảng loạn
Những người bị rối loạn hoảng sợ có những cơn hoảng sợ bất ngờ xuất hiện và tái phát nhiều lần. Các cơn hoảng sợ thường dữ dội và đột ngột. Chúng xảy ra rất nhanh chóng và đạt đến cực hạn trong vòng vài phút.
Sự khởi đầu của rối loạn hoảng sợ thường xuất hiện ở giai đoạn cuối tuổi vị thành niên hoặc đầu tuổi trưởng thành. Một số bệnh nhân bị cơn hoảng sợ sẽ nảy sinh tâm lý sợ hãi rời khỏi nhà để tránh cơn hoảng sợ, những bệnh nhân này được gọi là agoraphobic. Rối loạn hoảng sợ thường bắt đầu với các đợt lo lắng riêng lẻ kèm theo cơn hoảng sợ, sau đó trở thành rối loạn hoảng sợ toàn diện.
Mặc dù trẻ nhỏ có thể thỉnh thoảng có phản ứng hoảng sợ, nhưng vẫn chưa rõ liệu những cơn hoảng sợ này có kèm theo những suy nghĩ về nguy hiểm sắp xảy ra hay không. Hơn nữa, rất hiếm khi trẻ em tự nhiên trải qua các phản ứng hoảng sợ khi không có yếu tố kích hoạt. Các cơn hoảng sợ tự phát là yếu tố quan trọng của chẩn đoán.
Triệu chứng người bệnh có thể gặp phải trong cơn hoảng sợ:
4.3. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế – OCD
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một chứng rối loạn kéo dài và thường tiến triển mạn tính. Người bệnh bị thôi thúc, không kiểm soát được những suy nghĩ/hành vi lặp đi lặp lại.
Các triệu chứng phổ biến bao gồm:
Những suy nghĩ/hành vi này có thể cũng gặp ở người bình thường nhưng với người bị OCD thì:
Một số người bị OCD cũng có rối loạn vận động. Đây là các chuyển động đột ngột, ngắn ngủi, lặp đi lặp lại, chẳng hạn như chớp mắt và các chuyển động mắt khác, nhăn mặt, nhún vai và giật đầu hoặc vai. Cảm giác âm thanh phổ biến bao gồm các âm thanh lặp đi lặp lại như: Hắng giọng, đánh hơi (ngửi) hoặc càu nhàu.
Có nhiều loại OCD khác nhau bao gồm:
4.4. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương PTSD
Không giống như các chứng rối loạn lo âu khác, chẩn đoán rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) dựa trên một chuỗi nhân quả rõ ràng hơn, trong đó một người lần đầu tiên tiếp xúc với một sự kiện đau buồn, cảm thấy sợ hãi vì mối đe dọa đối với tính toàn vẹn cá nhân, và sau đó phát triển chứng rối loạn này. Một số tình huống có thể là nguyên nhân gây ra PTSD bao gồm hành hung cá nhân, bạo lực, thảm họa tự nhiên hoặc do con người gây ra, tai nạn hoặc chiến đấu quân sự. Bệnh nhân PTSD có ba loại triệu chứng:
4.5. Rối loạn lo âu xã hội
Hơn cả sự nhút nhát, rối loạn lo âu xã hội gây ra nỗi sợ hãi dữ dội về giao tiếp xã hội, thường bị thúc đẩy bởi những lo lắng phi lý về sự sỉ nhục (ví dụ như nói điều gì đó ngu ngốc hoặc không biết phải nói gì), sợ bị đánh giá, sợ bị từ chối… Một người nào đó mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có thể không tham gia vào các cuộc trò chuyện, không đóng góp ý kiến vào những cuộc thảo luận trong lớp hoặc không đưa ra ý tưởng của họ và họ là những người rất dễ bị cô lập…
Những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội thường có một số biểu hiện:
4.6. Rối loạn lo âu chia ly
Rối loạn lo âu chia ly – SAD đề cập đến sự lo lắng thái quá, biểu hiện bằng sự quan tâm quá mức, lo lắng và thậm chí sợ hãi về sự xa cách thực sự hoặc dự kiến với người đã từng gắn bó.
Các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng của SAD rất khác nhau giữa trẻ em, người lớn và có thể bị ảnh hưởng bởi sự khác biệt trong các hoạt động hoặc môi trường. Bất kể biểu hiện như thế nào, các triệu chứng phải đủ nghiêm trọng để làm suy giảm hoạt động bình thường hàng ngày thì mới được coi là SAD.
Ngoài ra người bệnh có thể có kèm các triệu chứng: Nhức đầu, lên cơn hen, buồn nôn, đau ngực, nhịp tim nhanh, khó thở, chóng mặt…
4.7. Chứng ám ảnh cụ thể
Những người bị chứng ám ảnh cụ thể có dấu hiệu sợ hãi tột độ (quá mức) về một đối tượng cụ thể như đồ vật, địa điểm, tình huống, cảm giác hoặc động vật. Nỗi sợ hãi này gây ra sự né tránh cản trở các hoạt động khác hoặc tạo ra sự đau khổ, lo lắng rõ rệt cho người bệnh.
Các ví dụ phổ biến về chứng sợ bao gồm:
Rối loạn lo âu kéo dài ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan, tổ chức trong cơ thể dẫn đến hàng loạt rối loạn chức năng:
Ảnh hưởng của rối loạn lo âu khác nhau tùy thuộc vào mức độ, thời gian và các bệnh lý nền của người bệnh. Một số tác động ngắn hạn mà bạn có thể gặp phải bao gồm không có khả năng hoàn thành các công việc hàng ngày. Ảnh hưởng lâu dài nghiêm trọng nhất là trở thành tự sát.
Các triệu chứng thực thể của rối loạn lo âu có thể dễ bị nhầm lẫn với các tình trạng bệnh lý khác, như bệnh tim hoặc cường giáp. Do đó, bác sĩ có thể sẽ thực hiện một cuộc đánh giá bao gồm khám sức khỏe, yêu cầu làm test câu hỏi và các xét nghiệm loại trừ. Để chẩn đoán bệnh rối loạn lo âu cần được thăm khám và chẩn đoán bởi các bác sĩ chuyên khoa hoặc chuyên gia tâm lý.
Dựa trên các triệu chứng thường gặp của người bệnh, bác sĩ sẽ xác định dạng rối loạn lo âu cụ thể mà người bệnh mắc phải.
Để chẩn đoán một người bị rối loạn lo âu, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ đã đưa ra một số tiêu chuẩn sau:
Có ít nhất 3 triệu chứng với người lớn hoặc 1 triệu chứng ở trẻ em trong các triệu chứng đi kèm sau: Khó chịu, mệt mỏi, khó tập trung, bồn chồn, căng cơ hoặc khó/mất ngủ.
Các chứng rối loạn lo âu khác nhau có các triệu chứng riêng biệt. Điều này có nghĩa là mỗi loại rối loạn lo âu cũng có kế hoạch điều trị riêng. Nhưng có những loại điều trị phổ biến được sử dụng.
7.1. Liệu pháp Hành vi nhận thức (CBT)
Đây là một ví dụ về một loại liệu pháp tâm lý có thể giúp những người bị rối loạn lo âu. Liệu pháp hành vi nhận thức tập trung hỗ trợ người bệnh hình thành thói quen suy nghĩ, hành động và phản ứng tích cực trước các tác nhân gây lo lắng, sợ hãi. Đồng thời, CBT cũng giúp người bệnh học và thực hành tốt các kỹ năng xã hội bao gồm cả kỹ năng giao tiếp và khả năng thích ứng. Đây là những điều vô cùng quan trọng với người bệnh rối loạn lo âu, nhất là chứng rối loạn lo âu xã hội.
7.2. Điều trị dùng thuốc
Mặc dù thuốc không chữa khỏi chứng rối loạn lo âu nhưng có thể giúp làm giảm các triệu chứng.
7.3. Các phương pháp điều trị khác
Để phòng tránh rối loạn lo âu, bạn nên thay đổi nhận thức và hành vi của bản thân:
Rối loạn lo âu có thể ảnh hưởng đến khả năng làm việc, học tập, sức khỏe và việc tham gia các hoạt động khác của người bệnh. Rối loạn lo âu hoàn toàn có thể được kiểm soát nếu được phát hiện sớm và tiếp cận với phương pháp điều trị thích hợp.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh