✴️ Liệu pháp hoá dược tâm thần (Phần 1)

Nội dung

KHÁI NIỆM VỀ ĐIỀU TRỊ TRONG TÂM THẦN HỌC.

Về lí luận:

Người ta chia các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần ra làm 2 nhóm:

Các liệu pháp sinh học:

Quan niệm cơ thể con người là một khách thể sinh học nên bệnh tật của con người cũng là một quá trình sinh học. Vì vậy tất cả các phương pháp tác động trực tiếp lên bệnh tật của con người đều được coi là liệu pháp sinh học (biological therapy). Các liệu pháp sinh học rất đa dạng, nhưng trong Tâm thần học người ta chỉ quan tâm đến 2 loại liệu pháp là liệu pháp hoá dược và liệu pháp chuyên biệt như sốc điện, sốc insuline, bơm khí não,…

Các liệu pháp tâm lí - xã hội:

Con người sống thành xã hội, có nhiều mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì vậy ngoài khách thể sinh học, con người cũng là một khách thể xã hội. Các phương pháp điều trị tác động lên nhân cách, phục hồi khả năng hoạt động xã hội, đưa con người về với đời sống xã hội đều được coi là các liệu pháp tâm lí-xã hội (psycho-sociological therapy). Các liệu pháp tâm lí-xã hội cũng rất đa dạng như các liệu pháp tâm lí, liệu pháp phục hồi chức năng tâm thần,…

Về thực hành:

Người ta coi liệu pháp hoá dược là liệu pháp quan trọng bậc nhất, nó là nền tảng vững chắc cho điều trị. Liệu pháp hoá dược làm thay đổi về "chất"của mối quan hệ giữa bệnh nhân tâm thần với thầy thuốc, mang lại sự bình đẳng của bệnh nhân tâm thần với các bệnh nhân khác và có nghĩa là bệnh phải được điều trị bằng thuốc và phải được theo dõi, chăm sóc chu đáo như nhau.

Ngoài ra, liệu pháp hoá dược còn làm thay đổi bộ mặt của chuyên ngành Tâm thần học, làm thay đổi quan niệm về bệnh tâm thần và nhiều khi còn gợi mở những ý tưởng mới khi xem xét cơ chế bệnh sinh một số bệnh tâm thần. Liệu pháp hoá dược tâm thần tuy đứng ở vị trí chủ đạo, nhưng vẫn chịu sự chi phối, tác động của các liệu pháp điều trị khác trong mối liên hệ hữu cơ, hỗ trợ lẫn nhau làm tăng thêm hiệu quả điều trị cho người bệnh.

 

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN LIỆU PHÁP HOÁ DƯỢC TÂM THẦN.

Lịch sử phát triển liệu pháp hoá dược điều trị các bệnh tâm thần gắn liền với lịch sử phát triển của chuyên ngành Tâm thần học. Đó là lịch sử của các cuộc đấu tranh không ngừng để giải phóng người bệnh, cải tiến chế độ chăm sóc, cải thiện hoàn cảnh và điều kiện sinh hoạt, đồng thời hướng dẫn người bệnh sử dụng thuốc hướng tâm thần ngày càng hợp lí và khoa học.

Năm 1952, Charpentier là người đầu tiên tổng hợp ra chất chlorpromazin và 14 tháng sau thì H.Laborit đã nghiên cứu áp dụng thuốc này vào lâm sàng tâm thần, dựa trên cơ sở kinh nghiệm sử dụng chlorpromazin trong ngoại khoa.

Sau khi J.Deley và P.Deniker công bố kết quả điều trị bệnh tâm thần bằng chlorpromazin thì việc điều trị bệnh tâm thần mới chính thức trở thành một phương pháp điều trị. Các tác giả khác đã lần lượt công bố hàng loạt thuốc hướng tâm thần như:

Năm 1958, Jansen (Bỉ) đã sản xuất thuốc haloperidol, T. Kuhn (Thụy Sĩ) đã tổng hợp được imipramin và N. Kline công bố tác dụng của IMAO.

Năm 1960, S. Bach tổng hợp được chlordiazepoxide.

Năm 1956, ngành Dược lí học tâm thần ra đời nhằm đáp ứng những yêu cầu nghiên cứu cơ chế tác dụng và phân loại các thuốc hướng tâm thần. Cho đến nay có hàng trăm loại thuốc hướng tâm thần được sử dụng. Việc sử dụng các thuốc hướng tâm thần trong lâm sàng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của Tâm thần học trên toàn cầu.

 

CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA THUỐC HƯỚNG TÂM THẦN.

Hiện nay, chưa có cơ sở chắc chắn về lí thuyết cũng như thực nghiệm để giải thích cơ chế tác dụng của các thuốc hướng tâm thần. Việc giải thích cơ chế tác dụng của các thuốc cực kì phức tạp, có liên quan chặt chẽ với biến đổi các chức năng sinh lí và hoá sinh của các hoạt động tâm thần lúc bị bệnh. Sự hiểu biết chưa đầy đủ về những vấn đề cơ chế của thuốc hướng tâm thần đã làm cho người ta chưa thể hiểu được cơ chế bệnh sinh của nhiều bệnh tâm thần khác nhau. Các giả thuyết về tác dụng các thuốc hướng tâm thần đã bổ sung cho nhau và từng bước mở ra những hiểu biết mới. Nói chung, các thuốc hướng tâm thần đều có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, điều đó được khẳng định. Song các thuốc tác dụng đầu tiên vào vị trí nào của hệ thần kinh trung ương thì hiện nay vẫn còn đang là vấn đề phức tạp và chưa được làm sáng tỏ. Có thể khái quát bằng 3 nhóm các giả thuyết sau:

Các giả thuyết về hoá sinh:

Giả thuyết về catecholamin ở cấu trúc xinap.

Giả thuyết của Brodi và Heath.

Giả thuyết về receptor.

Các giả thuyết về phản xạ có điều kiện:

Giả thuyết của Anokhin về neuroleptic ức chế vỏ não.

Giả thuyết của Kamensky về neuroleptic ức chế vỏ não - dưới vỏ.

Giả thuyết của Upensky về neuroleptic ức chế vỏ não - dưới vỏ - thân não.

Các giả thuyết về điện sinh lí não:

Aminazin tác động lên thể lưới.

Haloperidol tác động lên hồi hải mã và nhân amidal.

Reserpin tác động lên đồi thị và hệ limbic.

 

PHÂN LOẠI CÁC THUỐC HƯỚNG TÂM THẦN.

Hiện nay, người ta đã tổng hợp được hàng ngàn loại thuốc hướng tâm thần khác nhau, tùy thuộc vào các khuynh hướng và các trường phái khác nhau mà người ta đưa ra cách phân loại các thuốc hướng tâm thần khác nhau. Mỗi cách phân loại đều dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn nhất định.

Phân loại của các nhà tâm thần học Mỹ:

Trong dược điển của Mỹ, các thuốc hướng tâm thần được phân chia 3 nhóm chính:

Các thuốc an thần bao gồm:

Các thuốc an thần mạnh.

Các thuốc an thần nhẹ hay thuốc giải lo âu.

Các thuốc kích thích bao gồm:

Các thuốc kích thích thần kinh.

Các thuốc chống trầm cảm.

Các thuốc gây loạn tâm thần:

Phân loại của Delay (1961):

Các thuốc hướng tâm thần được chia làm 3 nhóm chính:

Các thuốc an thần (psycholeptic):

Các thuốc gây ngủ (hypnotic), cloral hydrat, barbiturate.

Các thuốc trấn tĩnh (neuroleptic) như phenothiazin, reserpin, butyrophenon và các thuốc khác.

Các thuốc an tĩnh (tranquilisants) như meprobamate, benzodiazepam,...

Các thuốc hưng thần (psychoanaleptic):

Các thuốc kích thích hoạt hoá.

Các thuốc kích thích khí sắc.

Các thuốc kích thích khác.

Các thuốc gây loạn tâm thần (psychodysleptic):

Bao gồm, các thuốc gây ảo giác, các thuốc gây rối loạn ý thức,...

Phân loại của G.A. Burnazian (1985):

Chia thuốc hướng tâm thần thành 3 nhóm chính:

Các thuốc an thần (psycholeptic):

Các thuốc trấn tĩnh (neuroleptic): có tác dụng làm giảm hưng phấn tâm thần vận động và chống rối loạn tâm thần rõ rệt.

Các thuốc an tĩnh (tranquilisants): có tác dụng yếu lên hệ thống thần kinh, tác dụng chống rối loạn tâm thần thì rất yếu.

Các thuốc điều chỉnh khí sắc

Thuốc hưng thần (psychoanaleptic): bao gồm các thuốc chống trầm cảm, thuốc điều hoà, thuốc kích thích tăng cường hoạt động và trương lực hệ thần kinh trung ương.

Các thuốc chống trầm cảm (antidepressants): có tác dụng chống các trạng thái trầm cảm của bệnh tâm thần gây ra.

Các thuốc kích thích tâm thần (psychostimulisator): có tác dụng giải toả ức chế, tăng khí sắc, làm giảm cảm giác mệt mỏi.

Các thuốc gây loạn tâm thần (psychodysleptic): chính là các thuốc gây rối loạn tâm thần thực nghiệm được biểu hiện bằng các ảo giác, hoang tưởng, mê mộng, giống các rối loạn tâm thần nội sinh.

 

TÁC DỤNG CỦA THUỐC HƯỚNG TÂM THẦN.

Các phương thức sử dụng thuốc hướng tâm thần:

Thường bắt đầu bằng liều nhỏ thăm dò và tăng dần đến liều tối ưu, duy trì đến khi các triệu chứng thuyên giảm thì giảm liều dần cho đến liều nhỏ duy trì và điều trị củng cố kéo dài hoặc cắt hẳn.

Sử dụng một loại thuốc đạt liều tối ưu:

Tùy từng loại bệnh và tùy từng người bệnh mà liều tối ưu ở mức độ cao hay thấp. Nhưng thông thường là liều tương đối cao, ưu điểm:

  • Có tác dụng chọn lọc trên một nhóm triệu chứng nào đó.
  • Ít kháng thuốc.
  • Dễ theo dõi các tác dụng không mong muốn.
  • Dễ phát hiện dị nguyên khi có dị ứng thuốc.

Nhưng cũng có nhược điểm:

  • Thường dùng ở liều cao, người bệnh dễ vào trạng thái ngấm thuốc.
  • Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân sợ dùng thuốc nên việc điều trị củng cố, kéo dài gặp khó khăn.
  • Không giải quyết được nhiều triệu chứng lâm sàng đa dạng cùng một lúc.

Sử dụng phối hợp nhiều loại thuốc:

Phối hợp các thuốc cùng nhóm hay các thuốc khác nhóm và phối hợp hai hoặc ba loại thuốc trong một liệu trình điều trị có những ưu điểm:

  • Ít gặp các tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra.
  • Ít gặp tình trạng ngấm thuốc hay ngộ độc thuốc.
  • Giải quyết được nhiều triệu chứng cùng một lúc.
  • Bệnh nhân và gia đình không cảm thấy lo lắng, dễ chấp nhận điều trị củng cố.
  • Sớm đưa bệnh nhân vào hoạt động phục hồi chức năng tâm thần và tái thích ứng xã hội.

Nhưng cũng có nhược điểm:

  • Dễ kháng thuốc.
  • Khó phát hiện dị nguyên khi có dị ứng thuốc.

Nguyên tắc sử dụng các thuốc hướng tâm thần:

Bao gồm 8 nguyên tắc sau:

Phải có chẩn đoán quyết định bệnh đầy đủ.

Chỉ sử dụng thuốc khi cần và không được dùng thuốc như là phương tiện thay thế thời gian nói chuyện với bệnh nhân.

Làm quen với các liệu pháp điều trị, hiểu sâu sắc và thực hành tốt với một số loại thuốc nhất định, không nên nghiên cứu sơ sài về tác dụng của tất cả các loại thuốc hướng tâm thần.

Nắm kiến thức chi tiết về dược lực và dược động học có liên quan đến các loại thuốc khi kê đơn.

Sự dung nạp thuốc hướng tâm thần của bệnh nhân trong quá trình điều trị trước đây như một phương hướng chỉ đạo cho công tác điều trị trong hiện tại và trong tương lai.

Nâng cao khả năng đáp ứng của thuốc hướng tâm thần bằng cách sử dụng những liều thuốc tối thiểu và đơn giản nhất để thầy thuốc dễ theo dõi và bệnh nhân dễ sử dụng.

Nên sử dụng một loại thuốc hướng tâm thần và chỉ sử dụng hơn một loại thuốc nếu thấy thực sự cần thiết cho bệnh nhân.

Điều chỉnh các phương pháp điều trị phải tùy thuộc vào từng bệnh nhân như: trẻ con, người già, phụ nữ có thai, người bị các bệnh thực tổn, ...

Thuốc trấn tĩnh:

Các dẫn xuất của phenothiazine:

Các dẫn chất của phenothiazin có tác dụng an thần chiếm ưu thế, bao gồm các thuốc sau:

Aminazin (clopromazin, largactil, thorazin, megaphen, và 21 tên gọi khác):

Aminazin là một trong những thuốc hướng tâm thần phổ biến nhất.

Tác dụng: tác dụng an thần mạnh, phong bế giao cảm thần kinh, giảm khí sắc mạnh, gây trầm cảm, giảm khả năng phản ứng với kích thích, ức chế phản xạ, hủy adrenalin cả trung ương và ngoại vi, tăng cường tác dụng của các thuốc (ngủ, giảm đau), giảm huyết áp, giảm nhiệt độ, chống nôn, tăng đồng hoá và tăng trọng lượng cơ thể.

Chỉ định: hội chứng hưng cảm, trạng thái kích động, các xung động tâm thần, rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân động kinh, rội chứng ám ảnh sợ và rối loạn giấc ngủ.

Chống chỉ định:

Các bệnh cơ thể: xơ gan, viêm gan, viêm thận, sỏi thận; rối loạn chức năng cơ quan tạo máu, nghẽn tắc mạch, loạn dưỡng cơ tim, thấp tim; hôn mê, bệnh não và tủy sống tiến triển, chấn thương sọ não cấp tính; bệnh giãn phế quản giai đoạn cuối.

Các bệnh tâm thần: TTPL thể đơn thuần; TTPL thể di chứng; hội chứng rối loạn trầm cảm.

Cách sử dụng:

Chuẩn bị: khám kỹ bệnh cơ thể, làm các xét nghiệm thường qui và cần thiết để loại trừ các chống chỉ định. Sau mỗi lần dùng thuốc, bệnh nhân phải nằm yên trên giường từ 1h30 - 2h, theo dõi mạch, huyết áp, nhiệt độ hàng ngày trong tuần lễ đầu tiên và làm lại các xét nghiệm công thức máu, chức năng gan, thận 1 - 3 tháng/1 lần.

Liều dùng: người lớn: 100 - 500 mg/ngày (uống sau bữa ăn 3 lần, sáng 1/4, trưa 1/4, tối 1/2 liều trong ngày). Trẻ em: dưới 6 tuổi 2 mg/kg/24h và 6 - 15 tuổi bằng 1/3 liều người lớn. Thời gian sử dụng mỗi liệu trình có thể kéo dài 2 tuần đến 2 tháng. Khi kết thúc phải giảm liều  dần, cần thiết có thể điều trị củng cố   25 - 50 mg/ngày x 6 tháng - 12 tháng.

Tác dụng phụ và biến chứng:

Rối loạn thần kinh thực vật: mạch nhanh, huyết áp hạ (10 - 30 mmHg), ra nhiều mồ hôi, giảm nước bọt, mót tiểu tiện, giảm phản xạ đồng tử với ánh sáng.

Rối loạn thần kinh và tâm thần: rối loạn ngoại tháp, mệt mỏi, buồn ngủ, trầm cảm.

Viêm gan nhiễm độc dị ứng; thiếu máu nhược sắc, giảm bạch cầu hạt.

Rối loạn chuyển hoá và nội tiết: tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, vú phát triển to hơn và bài tiết sữa non.

Các rối loạn khác: kích thích niêm mạc đường tiêu hoá, áp xe chỗ tiêm và viêm tắc tĩnh mạch, viêm da dị ứng, eczema, viêm kết mạc, viêm thanh - khí quản và thiếu vitamin.

Tác dụng lâm sàng: tăng khí sắc và kích động tâm thần vận động, ảo giác và hoang tưởng cấp tính, rối loạn lo sợ, rối loạn trầm cảm, căng trương lực mộng thức, hoang tưởng mạn tính, hội chứng căng trương lực và hội chứng thanh xuân mạn tính.

Propazin (ampazine, ampazin, centractil, frenyl, neuroleptil, promazine, promazini, hydrocloridum, promazine, hydrochloride, promazinon, promazinum, protactil, prazine, sediston, sinophenin, sparine, salofen, verophen,...): Propazin tương tự aminazin, nhưng yếu hơn aminazin cả về an thần và chống loạn tâm thần.

Liều dùng: với người lớn gấp 1,5 lần so với aminazin, liều khởi đầu uống 25 - 50 mg x 2 - 3 lần/ngày (sau bữa ăn), có thể tăng dần tới 400 - 600.-.800 mg/ngày. Liều điều trị củng cố: 50 - 75mg/ngày x 3 – 6 - 12 tháng.

Tác dụng phụ và biến chứng: ít độc hơn aminazin, người bệnh dễ chịu đựng, tác dụng phụ và biến chứng nhẹ và ít hơn aminazin.

Tisercin (dedoran, laevomepromazin, levomepromazini, hydrocloridum, neozine, levomepromazine,levopromazin,levomepromazine, hydrochloride, methotri- meprazine, minozinan, neuractil, nozinan, sinogan, veractil,...):

Tisercin an thần mạnh, nhanh, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ, thuốc  giảm đau lớn gấp 4 lần aminazin, hạ nhiệt mạnh hơn 3 lần aminazin, có cả tác dụng của neuroleptic và antidepressve.

Liều dùng: người lớn liều khởi đầu uống 25 - 50 mg/ngày có thể tăng dần tới 100 – 300 mg/ngày. Liều tiêm bắp thịt: 50 - 150 mg/ngày. Trẻ em: từ 3 - 5 tuổi: 0,0125 - 0,025g, từ 5 - 7 tuổi: 0,025 - 0,05g, từ 7 - 10 tuổi: 0,05 - 0,075g và 10 - 14 tuổi: 0,05 - 0,1g.

Thời gian: thời gian điều trị nội trú từ 1 - 2 tháng và thời gian điều trị củng cố từ 2 - 3 tháng, với liều 25 - 50 mg/ngày.

Melleril (thioridazinum, malloril, malloryl, mellaril, thioridazine hydrocloride, thioridazini-hydrochloridum, sonapax):

Có tác dụng kết hợp cả 2 tính chất an thần và kích thích ở mức độ trung bình tương tự như: frenolon, theralen, tác dụng an thần, chống loạn tâm thần yếu hơn aminazin và tisercin.

Liều dùng: người lớn, khởi đầu 25 - 50 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng dần tới 150 - 300 mg/ngày. Trẻ em từ 3 - 5 tuổi: 0,005 g - 0,01g/ngày, từ 5 - 7 tuổi: 0,005 - 0,015 g/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 0,015 - 0,03 g/ngày. Thời gian mỗi liệu trình điều trị có thể kéo dài 2 - 6 tuần.

Neuleptyl (periciazine, aolept, apamin, nemactil, periciazinum, pericyazine, neulactil, propericiazine):

Neuleptil là loại an thần yếu, nhưng mạnh hơn theralen, melleril và yếu hơn aminazin, tisercin.

Liều dùng: người lớn: khởi đầu bằng liều 5 - 10mg, những ngày sau có thể tăng dần tới 30 - 50 mg/ngày. Trẻ em: liều dùng 1 mg/tuổi. Chú ý: thuốc uống    2 - 3 lần/ngày, liều buổi tối cao hơn liều ban ngày.

Truxal (chloprothixen, chloprothixeni hydrochloride, chlothixen, minithixen, tactaran, taraotan, taraxan, trictal, truxil, vetacalm):

Truxal là loại an thần mạnh và nhanh, ở vị trí trung gian giữa aminazin và tisercin, liệt giao cảm như aminazin, liệt phó giao cảm mạnh hơn aminazin.

Liều dùng: khởi đầu bằng liều 25 - 50 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng tới 100 - 300 mg/ngày.

Các dẫn chất của phenithiazine:

Các dẫn chất của phenithiazine có tác dụng chống loạn thần chiếm ưu thế.

Triphtazin (calmazine, clinazine, equazine, eskazine, fluazine, fluperin, jatroneural, modalina, parstelin, stelazine, terfluzine, trifluoro-perazine hydrocloride, trifluoperazine hydrocloride, trifluoro-perazine, trifluperazini, triflurin, triperazine, trifluperazine, vespezine, yatroneural,...):

Tác dụng: an thần, hủy adrenalin, phong bế axetylcholin, hạ huyết áp, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ kém aminazin, chống ảo giác, hoang tưởng và tâm thần tự động khá rõ rệt, kích thích nhẹ và có tác dụng đa năng, tác dụng của  thuốc phụ thuộc vào liều lượng: từ 1 - 15 mg/ngày tác dụng kích thích chiếm ưu thế, từ 20 - 25 mg/ngày tác dụng chống ảo giác-hoang tưởng ưu thế, từ 60 - 100 mg/ngày có tác dụng chống ảo giác - hoang tưởng kèm theo tác dụng tăng an thần và thường xuất hiện các tác dụng phụ.

Chỉ định: hội chứng ảo giác, hoang tưởng, TTPL thể paranoid và thể đơn thuần, rối loạn ảo giác do rượu, trạng thái ám ảnh dai dẳng.

Chống chỉ định: bệnh gan cấp tính và mạn tính, bệnh tim mạch (rối loạn dẫn truyền, cao huyết áp giai đoạn 3), đợt cấp của viêm loét dạ dày - tá tràng, bệnh lao đang tiến triển, phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu, tổn thương thực thể não và trẻ em dưới 6 tuổi.

Liều dùng: người lớn uống liều khởi đầu 5mg/ngày,  có thể tăng  dần tới  15 - 40 mg/ngày, tiêm bắp thịt bằng 1/3 liều uống. Trẻ em từ 6 - 7 tuổi: 0,0025 - 0,01 g/ngày, từ 7 - 10 tuổi: 0,005 - 0,015 g/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 0,01 - 0,03 g/ngày.

Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp 60 - 78%, tổn thương gan, giảm bạch cầu hạt.

Tác dụng lâm sàng: hiệu quả tốt với hội chứng ảo giác - hoang tưởng của bệnh TTPL và của các rối loạn tâm thần khác, với hội chứng paranoid kèm theo hưng cảm, nên khắc phục hưng cảm trước bằng tisercin, sau đó dùng triphtazin  sẽ đưa lại kết quả tốt. Hiệu quả rõ rệt với hội chứng paranoid dai dẳng đã kháng với các thuốc neuroleptic khác, không gây trầm cảm và ít độc với gan hơn so   với aminazin. Viêm gan nhiễm độc dị ứng so với aminazin thì ít hơn nhiều lần (aminazin là 3 - 14/1000 và triphtazin 1/3.000.000).

Aethaperazin (chlorpiprazin, chlopiprozine, decentan, fentazin, neuropax, perphenan, perphenazini hydrochloridum, perphenazine hydrochloride, trilafon,...):

Aethaperazin có tác dụng: chống loạn thần mạnh hơn aminazin, tương tự triphtazin nhưng hoạt hoá mạnh hơn triphtazin, an thần yếu hơn aminazin, hủy adrenalin, giảm huyết áp và nhiệt độ, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ kém hơn aminazin.

Liều dùng: người lớn, khởi đầu 4mg x 2 - 3 lần/ngày, những ngày sau có thể tăng dần tới 25 - 50 mg/ngày, trường hợp kháng điều trị, mạn tính có thể tăng tới 60 - 80 mg/ngày. Thời gian duy trì liều tối ưu là 2 - 8 tuần, liều điều trị củng cố là 4 - 8 mg/ngày x 2 - 3 tháng.

Frenolon (metophenazatum, metophenazate, methophenazin, perphenazintri - methoxybenzoat, sylador):

Frenolon có tác dụng kích thích rõ, an thần và bình thần nhẹ, chống loạn tâm thần yếu, huỷ adrenalin và kháng histamin, giảm thân nhiệt, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ.

Liều dùng: người lớn, khởi đầu 5 mg x 1 - 2 lần/ngày, có thể tăng dần tới 20 - 30 mg/ngày, thời gian liều tối ưu điều trị nội trú có thể duy trì từ 5 - 30 ngày. Thời gian điều trị củng cố với liều 5  – 10 mg/ngày x 3 - 6 tháng. Trẻ em: uống   1 mg/kg/ngày.

Metharazinum (chlomeprazine, chlorperazin, compazine, dicopal, nipodal, novamin, prochlorperazine, maleas, maleate, sremetil, temetil,...):

Metharazinum  tác dụng: hoạt hoá kém frenolon, nhưng mạnh hơn triphtazin, an thần kém aminazin, chống hoang tưởng có hệ thống, hoang tưởng cảm thụ không có hưng cảm.

Liều dùng: người lớn liều khởi đầu 5 mg x 1 – 2 - 3 lần/ngày, những ngày sau, có thể tăng dần 50 - 100 mg/ngày.

Florphenazinum (anatensol, dapotum, elinol, flumazine, flumezin, fluphenazini hydrochloridum, lyogen, mirenil, moditen, pacinol, pacinone, permitil, prolixin, sevinal, sevinon, siqualine, siqualone, tensofin, tevival, trancin, vespazin,...):

Florphenazinum có tác dụng hoạt hoá như triphtazin, chống ảo giác hoang tưởng kém triphtazin, an thần yếu.

Liều dùng: người lớn: uống sau ăn, liều khởi đầu 1 mg  2 - 3 lần/ngày, những ngày sau có thể tăng dần tới 10 - 15 mg/ngày. Thời gian duy trì liều tối ưu là 2 - 8 tuần. Liều điều trị củng cố: 1 - mg/ngày với thời gian 1 - 13 tháng.

Majeptyl (thiopro-perazinum, caphalin, thioparazine, vontil):

Majeptyl có tác dụng đa năng mạnh, hoạt hoá mạnh.

Liều dùng với người lớn có 2 cách dùng:

Tăng dần: khởi đầu 2 - 5 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng dần tới 25 - 30mg/ngày và thời gian duy trì liều tối ưu là 1 - 1,5 tháng.

Ngắt quãng (sốc hoá học): với những trường hợp kháng điều trị. Liều khởi đầu 10 - 20 mg/ngày, những ngày sau tăng nhanh trong 4 - 7 ngày, tới khi xuất hiện dấu hiệu ngoại tháp, thậm chí ở mức độ nặng (thường liều 50 - 150 mg/ngày).

Phương pháp ngắt quãng dựa vào quan niệm hiệu quả của thuốc phụ thuộc vào mức độ rối loạn ngoại tháp. Sau khi xuất hiện rối loạn ngoại tháp điển hình thì ngừng thuốc đột ngột. Sau 3 - 5 ngày kể từ khi rối loạn ngoại tháp thoái lui hoàn toàn lại tiếp tục dùng majeptyl với liều tăng nhanh hơn trước tới khi xuất hiện rối loạn ngoại tháp điển hình, sau đó lại ngừng thuốc đột ngột. Một liệu trình 4 - 6 - 8 tuần.

Dẫn chất butyrophenon:

Haloperidol (aloperidin, haldol, halidol, haloperidin, haloperin, halophen, halopidol, serenace, ...):

Haloperidol có tác dụng chống loạn tâm thần và an thần mạnh, ức chế receptor alpha-noradrenalin và đặc biệt là ức chế dopamin trung ương, hủy adrenalin yếu, chống nôn mạnh hơn aminazin.

Chỉ định: hội chứng paranoid, hội chứng hưng cảm, hội chứng Kandinsky – Clerambault và hội chứng căng trương lực mộng thức.

Chống chỉ định:

Các tổn thương thực thể ở hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch và tổn thương ở gan, thận và thiên đầu thống.

Rối loạn phân li.

Thận trọng với người già, trẻ em và người cơ thể yếu.

Liều dùng: dùng được cả 3 đường: uống, tiêm bắp thịt và tĩnh mạch. Người lớn uống sau ăn, liều khởi đầu 1,5 mg x 1 - 3 lần/ngày, những ngày sau có thể tăng tới 5 - 20 mg/ngày, có thể tăng tới liều đối đa 30 mg/ngày. Cần thiết có thể tiêm bắp thịt 5 mg x 1 - 2 lần/ngày hoặc tiêm tĩnh mạch chậm pha loãng với dung dịch glucoza 5%. Tăng tới liều cho phép ở giới hạn dưới là phù hợp. Thời gian duy trì liều tối ưu là 15 - 45 ngày. Điều trị củng cố 1,5 - 4,5 mg/ngày x 3 - 6 tháng.

Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp nặng, rối loạn thần kinh thực vật (mạch nhanh, huyết áp tăng, nhịp thở nhanh, giảm tiết nước bọt, tăng tiết mồ hôi và tăng nhiệt độ,...), rối loạn cảm xúc, bồn chồn, khó chịu, lo sợ và thường phản ứng với việc sử dụng thuốc. Ngoài ra còn rối loạn giấc ngủ, viêm da, tăng tiết các tuyến bã, tăng tế bào limpho đơn nhân và đái tháo nhạt.

Tác dụng lâm sàng: ức chế hoạt động tâm thần nhưng không gây trầm cảm do thuốc, tác dụng chọn lọc với các ảo giác và hoang tưởng, có hiệu quả cao với những trường hợp ảo giác chiếm ưu thế hơn hoang tưởng, với những trường hợp mạn tính, kháng với haldol, kết quả điều trị sẽ tốt nếu thay: haldol kết hợp với triphtazin và haldol kết hợp với majeptyl, có tác dụng hoạt hoá với trạng thái vô cảm-mất hoạt động và có kết quả tốt với hội chứng paranoid, paraphrenia, paranoia, ảo thanh đa dạng, tâm thần tự động.

Trisedyl (flumoperonum, psicoperidol, trifluperidol, triperidol):

Trisedyl có tác dụng ức chế mạnh receptor dopamin trung ương. Đây là neuroleptic mạnh có cả tác dụng của haldol và majeptyl.

Liều dùng: người lớn liều khởi đầu 0,5 mg x 1 lần/ngày, những ngày sau tăng chậm dần có thể tới 1 - 5  mg/ngày,  nếu  thấy cần thiết có thể  tiêm bắp thịt 1 mg/1 lần. Thời gian duy trì liều tối ưu nội trú 1 - 1,5 tháng, thời gian điều trị ngoại trú với liều 0,5 mg/ngày x 3 - 6 tháng. Trẻ em từ dưới 5 tuổi = 1/4 liều người lớn và từ 6 - 15 tuổi = 1/2 liều người lớn.

Các neuroleptic khác:

Fluphenazinum (lyogen - depo, lyogen - retard, modicat, moditen - depo):

Tác dụng: là neuroleptic mạnh và có tác dụng chậm, chống loạn tâm thần mạnh và là thuốc có tác dụng gây hoạt hoá, tác dụng an thần yếu.

Chỉ định: bệnh TTPL thể đơn thuần, thể di chứng, thể căng trương lực, thể paranoid (thường ở giai đoạn điều trị củng cố và điều trị ngoại trú).

Chống chỉ định: giống moditen.

Liều dùng: người lớn tiêm bắp thịt với liều 12,5 - 25 mg/1lần, trong thời gian 2 - 3 tuần.

Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp do thuốc.

Tác dụng lâm sàng: giống fluphenazin enantat nhưng nhanh hơn. Thời gian tác dụng 25 - 26 ngày có hiệu quả cao đối với bệnh TTPL có các triệu chứng âm tính chiếm ưu thế. Dùng để điều trị ngoại trú, điều trị củng cố cho những trường hợp chống đối uống thuốc hàng ngày.

Pimozide (ORAP-24, P-6238):

Tác dụng tương tự haldol, chống loạn tâm thần, tác dụng bình thần (chống lo sợ), chống khuynh hướng hung bạo. Chỉ định chủ yếu cho thể bệnh TTPL thể di chứng, đơn thuần, thanh xuân và để điều trị củng cố.

Liều dùng: người lớn: uống liều trung bình 2 - 4 mg/ngày.

Thuốc bình thần (tranquillisant):

Meprobamat (andaxin, meprotan, aneural, biobamat, equanil, gadexyl, harmonin, mepavion, meproban, meprospan, pertranquile, procalmadiol, quanil, miltown, nephentine, pankalma, restenil, sedanyl, sedazil, sedral, tensonan, tranquil, tranquilan, tranquiline, tranquisan,...):

Tác dụng chủ yếu là an dịu, bình thần và ức chế; giảm căng thẳng cảm xúc; chống co giật; tăng cường tác dụng thuốc ngủ và thuốc giảm đau; giảm thân nhiệt; nhược cơ xương; tác dụng yếu lên hoạt động của hệ thống tim mạch, hô hấp, thần kinh thực vật và ít ảnh hưởng đến cơ trơn.

Chỉ định: căng thẳng cảm xúc, lo sợ, suy nhược thần kinh thể cường; rối loạn tâm căn các loại; hội chứng cai rượu; rối loạn giấc ngủ; nhân cách bệnh có khuynh hướng kích động; trầm cảm nhẹ và điều chỉnh các rối loạn ngoại tháp.

Chống chỉ định: nhược cơ, người điều khiển ô tô, xe máy, người có nghề cần sự tập trung chú ý cao độ.

Liều dùng: người lớn: liều trung bình 400 - 2000 mg/ngày. Trẻ em từ 3 - 8 tuổi: 0,1 - 0,2 x 2-3 lần/ngày, từ 8 - 14 tuổi: 0,2 x 2 - 3 lần/ngày. Thời gian 1 liệu trình là 15 - 30 ngày.

Tác dụng phụ và biến chứng: dị ứng, thất điều vận động, buồn ngủ, rối loạn tiêu hoá và phụ thuộc thuốc (nghiện).

Tác dụng lâm sàng: ít độc, có thể dùng cho người già và trẻ em, kết quả tốt với trạng thái lo sợ, căng thẳng cảm xúc.

Trioxazin (sedoxazin, trimetozinum, trimetozine):

Tác dụng an dịu, hoạt hoá, không gây ức chế nên còn gọi là tranquilisants ban ngày, không gây nhược cơ và không ức chế hoạt động trí tuệ.

Liều dùng: người lớn: 600 - 900 mg/ngày và trẻ em: 20 - 40 mg/kg/ngày.

Elinium (librium, ansiacal, benzodiazepin, chlordiazepoxidum, equinbral, chlordiazepoxide, decadil, labiton, lixin, novosed, radepur, sonimen, timosin, viansin,...):

Tác dụng an dịu, nhược cơ mạnh hơn meprobamat, chống động kinh và ít ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh thực vật.

Chỉ định: hội chứng ám ảnh nghi bệnh, lo sợ - căng thẳng cảm xúc và các trạng thái kích thích nói chung.

Liều dùng: người lớn: 5 - 25 mg/ngày và trẻ em từ 5 - 7 tuổi: 5 mg/ngày, từ 7 - 10 tuổi: 10 mg/ngày và từ 10 - 14 tuổi: 25 mg/ngày.

Seduxen (asiolin, apaurin, apozepam, eridan, lembrol, pacitrian, relanium, quetinil, saromet, serenamin, serensin, sonacon, valitran, valium, vatran, vival,...):

Tác dụng bình thần mạnh và kết hợp cả hai tác dụng bình thần và hoạt hoá, chống co giật và điều chỉnh các rối loạn thần kinh thực vật.

Chỉ định: hội chứng ám ảnh sợ và nghi bệnh, trầm cảm ngoại sinh nhẹ và chống co giật của cơn động kinh.

Liều dùng: có thể dùng đường uống, tiêm bắp thịt và tiêm tĩnh mạch.  Người lớn: uống 5 – 30 mg/ngày và trẻ em từ 3 - 5 tuổi: 2 – 3 mg/ngày, từ 5 - 7tuổi: 3 – 4 mg/ngày, từ 7 - 10 tuổi: 5 - 6 mg/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 5 – 8 mg/ngày.

Tác dụng phụ và biến chứng: phụ thuộc thuốc (nghiện), giảm trương lực cơ, thất điều vận động, mệt mỏi, đau đầu, nói khó, rối loạn cơ vòng, dị ứng và giảm bạch cầu.

Tác dụng lâm sàng: bình thần mạnh, có thể so sánh mức độ bình thần theo thứ tự: seduxen, elenium, meprobamat, trioxazin; liều nhỏ có tác dụng hoạt hoá và liều cao có tác dụng bình thần; chống động kinh và điều chỉnh rối loạn thần kinh thực vật.

Nitrazepam (eunovtin, neozepam, apodorm, benzalin, calsmin, dormicum, dumolid, epibenzalin, epinelbon, hypnax, hypsal, nitrodiazepam, pacidrim, pacisyn, radedorm, serenex, somitran, sonipam, sonnolin, livatan, mitidin, mogadan, mogadon, nelbon, nitrenpax):

Tác dụng bình thần kém các dẫn chất benzodiazepin, tác dụng gây ngủ và chống co giật ưu thế.

Liều dùng: người lớn, uống 5 - 15 mg/ngày và trẻ em từ 1 - 5 tuổi 2,5 -  5 mg/ngày và từ 6 - 14 tuổi 5 mg/ngày.

Oxylidin (benzoclidinini hydrochloridum, benzoclidine hydrochloride):

Tác dụng bình thần và hạ huyết áp nên có thể chống trầm cảm-lo sợ trên bệnh nhân rối loạn tuần hoàn não như cao huyết áp, xơ vữa mạch máu não và chống cao huyết áp giai đoạn I và II.

Liều dùng: người lớn uống 20 - 100 mg/ngày, nếu khắc phục cơn cao huyết áp kịch phát thì tiêm bắp thịt dung dịch 5% x 1 - 2 ml/1 lần; điều chỉnh cơn nhịp tim nhanh kịch phát, tiêm bắp thịt dung dịch 5% x 1 ml/1 lần và thời gian điều trị một liệu trình có thể kéo dài 15 - 30 ngày.

 

Xem tiếp: Liệu pháp hoá dược tâm thần (Phần 2)

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top