Mối liên quan giữa HIV và bệnh thận

Nội dung

HIV và bệnh thận

Thận là một trong những cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể. Chức năng cơ bản của thận là lọc chất thải và nước thừa từ máu. Trên thực tế, thận lọc khoảng 240 lít máu mỗi ngày và thải ra ngoài khoảng 2.5 lít nước và sản phẩm thừa mỗi ngày. Chất thải này được thải ra ngoài thông qua nước tiểu.

Chức năng thận bình thường là thiết yếu với mỗi người để có thể sống và thực hiện các hoạt động bình thường. Không may thay, điều này không phải luôn xảy ra với những người có xu hướng mắc bệnh nhiễm trùng, chấn thương hoặc tiếp xúc với chất độc.

Một số ví dụ về nguyên nhân dẫn đến giảm chức năng thận:

  • Tiểu đường
  • Tăng huyết áp
  • HIV
  • Viêm gan B hoặc C
  • Sỏi thận tái phát
  • Bệnh thận đa nang
  • Lupus
  • Sử dụng quá liều thuốc giảm đau, đặc biệt là acetaminophen hoặc ibuprofen
  • Sử dụng cocaine hoặc heroin
  • Tuổi già
  • Những người có tiền sử gia đình bệnh thận

Trên thực tế, khoảng 30% số người bị HIV được chẩn đoán có protein trong nước tiểu, một chất không được tìm thấy trong nước tiểu người bình thường. Khoảng 10% trong số họ sẽ tiến triển thành bệnh thận.

Điều này có nghĩa là khoảng 2% số người ở giai đoạn cuối bệnh thận sẽ có kết quả xét nghiệm HIV dương tính.

 

Tại sau bệnh thận dễ gặp ở những người HIV

Có nhiều nguyên nhân và loại bệnh thân ở những người mắc HIV. Với một số người, đó là do virus gây tổn thương thận. Với những người khác, thuốc điều trị HIV có thể góp phần gây tổn thương.

Hoại tử ống thận cấp là tình trạng ống thận bị tổn thương do những chất hóa học, bao gồm một số thuốc điều trị HIV. Một trong số những loại thuốc đó là Viread (tenofovir) có thể cản trở khả năng của thận lọc chất thải, gây nên bất thường trong chức năng và thậm chí dẫn đến suy thận

Hội chứng Fanconi cũng gây tổn thương ống thận, mất khả năng của thận tái hấp thư những chất điện giải và glucose.

Toan lactic là tình tràng đe dọa đến tính mạng liên quan đến những loại thuốc điều trị HIV cũ như Zerit (stavudine) dẫn đến tích tụ acid lactic rong máu. Thận là một hệ thông có thể bị tổn thương nghiêm trọng do toan lactic.

Sỏi thận được biết đến là nguyên nhân gây tắc nghẽn cấu trúc thận cũng như giảm oxy đến mô. Một số thuốc HIV làm tăng tỉ lệ sỏi thận như Crixivan (indinavir) và Reyataz (atazanavir)

 

Dấu hiệu và triệu chứng bệnh thận

Không may thay, hầu hết dấu hiệu thực thể của bệnh thận chỉ xảy ra sau khi thận bị tổn thương đáng kể. Triệu chứng thấy được của bệnh như phù tay, mặt và chân đặc biệt xảy ra chỉ ở những trường hợp nặng. Thay đổi trong tiểu tiện như giảm số lượng nước tiểu hoặc thay đổi màu sắc hoặc nồng độ nước tiểu có thể là gợi ý cho tình trạng giảm chức năng thận.

Bởi triệu chứng của bệnh thận có thể rõ ràng hoặc không, do đó rối loạn về thận thường được xác nhận bằng một số xét nghiệm, bao gồm:

  • Định lượng nồng độ nitrogen trong máu (sản phẩm thừa được lọc bởi thận). Khi thận mất chức năng, lượng chất thải chứa nito trong máu tăng cao, đó là giá trị BUN.
  • Creatinine là một chất tạo ra khi cơ bị phá hủy, được lọc khỏi máu qua thận. Khi thận bị tổn thương, creatine tích tụ, cung cấp bằng chứng cho tổn thương thận.
  • Protein tìm thấy trong máu cũng chỉ ra vấn đề về thận vì thận bình thường sẽ tái hấp thu protein trong quá trình lọc.

Bên cạnh các xét nghiệm máu và nước tiểu có thể cảnh báo bác sĩ về sự tiến triển của bệnh thận và là phương pháp phổ biến nhất, sinh thiết mô thận lại là phương tiện chẩn đoán tốt nhất.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top