1 Các phương pháp qua nội soi dạ dày
- Làm test nhanh urease:
Test này xác định hoạt độ enzym urease của HP bằng việc đặt mẫu mô dạ dày vào môi trường lỏng (test maison, CU test) hoặc bán đặc (CLOtest, HUT test) hoặc trên một cái màng gọi là Pyloritek có chứa urea và một chất chỉ thị màu theo pH. Nguyên tắc của thử nghiệm là nhằm phát hiện enzym urease của HP. Hầu như HP là loại vi khuẩn duy nhất trong dạ dày tiết enzym urease với khối lượng lớn (ngoại trừ một số rất ít bệnh nhân bị nhiễm Helicobacter helmanii). Enzym urase của HP có trong mẫu mô dạ dày sẽ làm biến đổi urease thành amoniac (NH3), NH3 làm môi trường thuốc thử có pH kiềm, vì vậy làm thay đổi màu của chất chỉ thị và theo phản ứng sau:
Urea + H2O => CO2 + NH3.
NH3 có pH kiềm làm đổi màu chỉ thị từ vàng sang đỏ.
Test urease
Ở Việt Nam thường sử dụng CLOtest. CLO test là viết tắt của chữ Campylobacter Like Organism test. CLOtest sử dụng mẫu thử là hổn hợp gồm: agar gel có chứa urea, chất chỉ thị đỏ phenol, chất kìm hãm vi khuẩn. Mẫu sinh thiết niêm mạc dạ dày lấy trong nội soi được vùi vào đó. Thử nghiệm dương tính khi mẫu thử CLOtest đổi màu từ vàng sang màu đỏ tía. CLOtest có thể đọc kết quả sau 5 phút, 20 phút, 1 giờ, 3 giờ,và 24 giờ. Nếu chỉ đọc kết quả trong một giờ, độ nhạy của thử nghiệm sẽ giảm xuống vì phụ thuộc vào lượng enzym urease hoạt động cũng như số lượng vi khuẩn. Ở một số trường hợp, kết quả dương tính chỉ sau vài phút, nhưng khi mật độ vi khuẩn thấp kết quả có thể dương tính sau nhiều giờ liền, thậm chí âm tính giả có thể xảy ra. Các trường hợp âm tính giả có thể do: mật độ vi khuẩn thấp, đang xuất huyết tiêu hóa, teo niêm mac dạ dày, u MALT, mới dùng kháng sinh hoặc thuốc ức chế bơm proton. Các trường hợp dương tính giả gặp trong nhiễm H.heilmanii, vi khuẩn này cũng sinh ra men urease và thường gặp trong dạ dày của chó, mèo, lợn. Khi độ toan dịch vị thấp, dương tính giả còn có thể gặp ở những trường hợp nhiễm vi khuẩn khác cũng sinh ra men urease như Enterobacter và Pseudomonas.sp.
- Nuôi cấy tìm vi khuẩn: Sinh thiết rồi cấy mẫu mô tìm vi khuẩn HP.
Phương pháp này xác định chính xác nhiễm HP về mặt phương diện vi khuẩn học. Nuôi cấy là thử nghiệm đặc hiệu nhất và có thể nói đó là tiêu chuẩn vàng có độ đăc hiệu 100%. Nuôi cấy còn cho biết mật độ của HP, cấu trúc gen của các chủng HP khác nhau. Nuôi cấy còn cho biết dạng hình cầu của HP là hình thái thoái hóa của vi khuẩn,
- Lấy mẫu mô niêm mạc dạ dày đem nhuộm Gram: để tìm sự có mặt của vi khuẩn. Tuy nhiên, độ nhạy không cao.
2. Các phương pháp không cần nội soi dạ dày
- Test hơi thở C13, C14 (Urease Breath Test=UBT):
Nghiệm pháp thở UBT được Graham mô tả đầu tiên vào năm 1987 và tiếp theo vào năm 1988 Marshall và Surveyor mô tả nghiệm pháp thở 14C. Cả hai nghiệm pháp này cho đến nay được xem là tiêu chuẩn vàng và đã trở thành một thử nghiệm phổ biến không xâm hại trong chẩn đoán và đánh giá kết quả tiệt trừ HP. Kết quả cả hai thử nghiệm thở 13C và 14C đều giống nhau và đều chính xác duy khác nhau ở chổ 13C là chất không gây phóng xạ còn 14C là chất có hoạt tính phóng xạ. Do 14C có hoạt tính phóng xạ nên không được dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai còn 13C thì dùng được cho 2 đối tượng nêu trên. Tuy nhiên, việc sử dụng test này có giá thành cao và máy khá đắt.
Nguyên tắc: Bệnh nhân được cho uống urea được đánh dấu 13C hoặc 14C. Nếu dùng 13C thì không cần kèm điều kiện chăm sóc, theo dõi và chuyên chở đặc biệt, nên 13C UBT được dùng rộng rãi hơn. Sau khi uống, enzym urease từ vi khuẩn sẽ tác động lên urea được đánh dấu và giải phóng 13CO2.. Chất này đi vào máu và thải trừ qua phổi. Việc phát hiện trong hơi thở chất đồng vị được đánh dấu và hoặc là tỉ lệ 13C/12C được đo bằng sắc ký hơi và quang phổ kế khối hoặc một hệ thống khác như quang phổ laser và hoặc quang phổ hồng ngoại. Nghiệm pháp được coi là dương tính khi có ngưỡng 3 delta đối với 1000. Để tránh kết quả âm tính giả nên cho bệnh nhân ngưng thuốc ức chế bơm proton ít nhất 2 tuần và thuốc kháng sinh ít nhất 4 tuần. Test hơi thở có độ chính xác hơn 95% và thường được dùng để đánh giá kết quả điều trị tiệt trừ HP.
- Xét nghiệm tìm kháng thể IgG trong huyết thanh:
Chẩn đoán huyết thanh bằng phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay) để phát hiện kháng thể IgG kháng HP. Đây là một xét nghiệm ít tốn kém và thích hợp cho nghiên cứu dịch tể học với độ nhạy trên 90%.
Test nhanh bằng huyết thanh chủ yếu phục vụ cho các bác sĩ lâm sàng thực hành tại các cơ sở y tế, ít khi được áp dụng trong các nghiên cứu. Về nguyên tắc, huyết thanh hoặc máu của bệnh nhân được đặt trên một giải sắc ký có chứa sẵn những kháng nguyên đặc hiệu, phản ứng ngưng kết sẽ xảy ra trong vòng 2 - 3 phút và cho kết quả chẩn đoán dương tính.
Tìm kháng thể kháng HP trong nước tiểu: Năm 1998, các nhà khoa học Nhật Bản tìm thấy kháng thể IgG kháng HP trong nước tiểu của bệnh nhân. Từ đó mở ra khả năng một phương pháp mới để chẩn đoán nhiễm HP.
- Xét nghiệm tìm kháng nguyên vi khuẩn HP trong phân HpSA:
Đây là một test mới dùng kỹ thuật ELISA có tên là Premier platinum HpSA để phát hiện kháng nguyên của HP trong phân. Xét nghiệm này ngoài việc giúp chẩn đoán nhiễm HP, nó còn giúp theo dõi điều trị tiệt trừ HP với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Đối với trẻ em, thử nghiệm HpSA rất có ích trong nghiên cứu dịch tễ học vì các thử nghiệm xâm lấn qua nội soi khó thực hiện. Hơn nữa, đối với trẻ em mới sinh ra và trong những năm đầu đời, chẩn đoán huyết thanh cũng khó đánh giá do còn kháng thể từ mẹ truyền sang con vẫn còn tồn tại.
- Một số phương pháp xét nghiệm khác:
+ Xác định acid nhân (AND) của vi khuẩn: Phản ứng khuếch đại gen cho phép phát hiện chuỗi ADN đặc hiệu của HP trong mẫu sinh thiết dạ dày, trong dịch dạ dày, trong chất nhày hoặc trong nước bọt, trong mảng bám răng, trong phân. Phương pháp này có thể phát hiện mật độ vi khuẩn thấp < 106 vi khuẩn trong 1 gam phân. Tuy nhiên không cho phép xác định sự hiện diện của vi khuẩn sống.
+ Phản ứng chuỗi Polymerase PCR (Polymerase Chained Reaction). Nguyên tắc PCR là một thử nghiệm cho phép khuếch đại chọn lọc một mẫu ADN đích thành một tỷ bản sao để sau đó có thể phát hiện được. Mẫu bệnh phẩm có thể lấy từ mẫu sinh thiết dạ dày, dịch hút dạ dày, mảng cao răng, nước bọt hay từ phân được phân tích để lấy ADN đích, tiếp theo là bước khuếch đại từ những primer mồi hoặc là những ADN đơn được bắt cặp vào đoạn khởi đầu hay đoạn cuối của chuỗi ADN đích với sự tham gia xúc tác phản ứng tổng hợp của men Taq polymerase (là men chịu được nhiệt độ trích từ vi khuẩn Thermus aquaticus). Sự khuếch đại của thử nghiệm PCR dựa vào 30 - 40 chu kỳ nhiệt theo 3 bước: giai đoạn làm biến tính, giai đoạn bắt cặp, giai đoạn kéo dài. Cuối cùng, những sản phẩm khuếch đại trên 109 bản sao từ ADN đích ban đầu sẽ được phát hiện bằng phương pháp điện di.
+ Test huyết thanh phát hiện kháng thể kháng CagA: Ở phương Tây, những chủng HP biểu hiện với CagA (+) có liên quan đến bệnh sinh loét dạ dày tá tràng. Thử nghiệm ELISA phát hiện những 25 protein đặc hiệu của CagA hoặc là kháng thể kháng CagA. Tuy nhiên, ở phương Đông và Nam Mỹ, CagA (+) thấy ở hầu hết các đối tượng và không rõ sự khác biệt trong khả năng gây bệnh.
+ Dùng PCR chẩn đoán HP trong phân: Trên thực nghiệm người ta đã dùng kỹ thuật PCR để tìm HP trong phân. Tuy nhiên, thử nghiệm này sẽ khó thực hiện nếu bệnh nhân có chế độ ăn nhiều chất xơ. Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp nào đơn giản và hữu hiệu để giúp loại bỏ chất xơ này, vì vậy thử nghiệm này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Tổ chức Tiêu hóa Thế giới khuyến cáo trong thực tiễn khám và điều trị HP nên dùng hai phương pháp: test nhanh urease khi nội soi dạ dày và test thở C13 hoặc C14. Các phương pháp khác chủ yếu làm với mục đích nghiên cứu dịch tễ hoặc nghiên cứu sâu. Sử dụng xét nghiệm máu tìm kháng thể IgG trong huyết thanh để phát hiện nhiễm HP là không chính xác, gây lãng phí. Vì nếu xét nhiệm cho thấy có khảng thể trong máu (dương tính), thì chỉ biết bệnh nhân đã từng nhiễm HP chứ không chắc chắn hiện tại có nhiễm HP hay không, và hơn nữa sau khi điều trị diệt hoàn toàn HP thì kháng thể IgG vẫn còn tồn tại trong máu rất lâu nên không biết được bệnh nhân còn hay hết vi khuẩn HP.