Cholesterol LDL là gì?

Lipoprotein cholesterol tỷ trọng thấp (LDL), là loại cholesterol xấu có thể làm tăng nguy cơ đau tim và đột qụy. Cholesterol LDL đóng vai trò quan trọng trong việc tích tụ các chất béo bên trong động mạch, có thể khiến các mạch máu bị thu hẹp theo thời gian, làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ.

LDL gây ra cơn đau tim và đột quỵ như thế nào?

Theo thời gian Lipoprotein tỷ trọng thấp chứa cholesterol có thể tích tụ trong thành động mạch khi bạn có các yếu tố nguy cơ như huyết áp cao, hút thuốc hoặc tiểu đường. Nó cũng có thể tích tụ theo thời gian khi bạn già đi, ngay cả ở những người không bị huyết áp cao.

Sự tích tụ các hạt này dẫn đến sự hình thành mảng bám. Khi các mảng bám phát triển và bị viêm, chúng có thể vỡ ra, khiến cục máu đông hình thành trong động mạch làm tắc nghẽn mạch vành tim, mạch não, gây cơn đột quỵ hoặc nhũn não. Trong đa số trường hợp, khi mạch vành bị hẹp do mảng bám làm hạn chế lưu lượng máu, gây ra các cơn đau tim.

 

Tại sao việc biết chỉ số LDL và cholesterol lại quan trọng?

Cholesterol LDL là yếu tố nguy cơ thầm lặng. Nếu không xét nghiệm máu thì bạn không thể biết được mức LDL của bạn là bao nhiêu. Không có mức “bình thường”, vì vậy điều quan trọng là phải hỏi bác sĩ xem mức LDL của bạn là thấp hay cao đối với trường hợp của bạn.

 

Cần kiểm tra cholesterol bao lâu một lần ?

Nếu bạn khoẻ mạnh và không có tiền sử bệnh tim và đột quỵ, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ khuyên bạn nên kiểm tra cholesterol khoảng 5 năm một lần. Nếu bạn có các yếu tố nguy cơ như bệnh tiểu đường hoặc có tiền sử cholesterol rất cao thì nên kiểm tra thường xuyên hàng năm. Số lượng cholesterol có thể cho biết nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ, điều này có thể giúp bác sĩ quyết định xem mức cholesterol của bạn có quá cao trong trường hợp của bạn hay không. Nếu bạn bị đau tim hoặc đột quỵ, bạn nên kiểm tra cholesterol của mình ít nhất mỗi năm một lần và thường xuyên hơn nếu bạn đang bắt đầu dùng thuốc hoặc điều chỉnh lượng thuốc.

 

Mức LDL tốt là bao nhiêu?

Nếu bạn khoẻ mạnh, không có yếu tố nguy cơ bị đau tim và đột quỵ, hút thuốc lá, tiểu đường, LDL nên ở mức dưới 100 mg/dL. Nhưng nếu có yếu tố nguy cơ, đặc biệt nếu mắc bệnh tim hoặc từng bị đột quỵ, thì cần giảm LDL xuống 70 mg/dL hoặc thậm chí thấp hơn trong một số trường hợp.

Những người khoẻ mạnh không có yếu tố nguy cơ sẽ thực hiện thay đổi lối sống để kiểm soát LDL, nhưng những người có yếu tố nguy cơ rất có thể sẽ cần dùng thuốc để giảm cholesterol.

 

Làm gì để giảm LDL?

Đối với nhiều người, việc thay đổi chế độ ăn uống có thể rất quan trọng để giúp kiểm soát cholesterol LDL. Đặc biệt mọi người nên tránh các loại thịt đỏ, chất béo từ sữa và lòng đỏ trứng cũng như các loại dầu nhiệt đới như dầu dừa và dầu gan cá tuyết. Ăn chất béo lành mạnh và nấu ăn bằng dầu oliu hoặc dầu hạt cải. Việc này mang lợi ích cho sức khoẻ ngay cả khi cholesterol không cao.

Tuy nhiên, khi cholesterol cao, cần dùng statin hoặc các loại thuốc giảm cholesterol khác. Đặc biệt là khi mọi người bị đau tim hoặc đột quỵ hoặc có các yếu tố nguy cơ khác, họ cần một kế hoạch điều trị tích cực hơn bao gồm dùng thuốc và có thể bao gồm mục tiêu hạ LDL ở mức phù hợp.

 

Có yếu tố gì khác làm tăng cholesterol LDL không?

Mức cholesterol LDL trong máu được xác định một phần bởi sự kết hợp các gen mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ. Một số người rất nhạy cảm với lượng cholesterol và chất béo bão hoà trong chế độ ăn uống của họ, điều đó có nghĩa là khi họ ăn các sản phẩm từ sữa có hàm lượng chất béo cao như bơ hoặc phô mai hoặc ăn nhiều thịt đỏ, có thể khiến cholesterol LDL của họ tăng lên. Chỉ có khoảng 25% - 30% dân số nhạy cảm với những thực phẩm này, những người mà chế độ ăn uống có thể ảnh hưởng đến mức cholesterol của họ. Đối với những người khác, chế độ ăn uống không tạo ra sự khác biệt lớn về số lượng của họ và việc bạn tập thể dục bao nhiêu không ảnh hưởng đến cholesterol LDL của bạn.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top