Tìm hiểu thêm: Sàng lọc và chẩn đoán ung thư vú
Trastuzumab là chất ức chế HER2 đầu tiên được FDA Hoa Kỳ phê duyệt vào năm 1998 để điều trị HER2 dương tính ở bệnh nhân ung thư vú. Pertuzumab đã được phê duyệt vào năm 2012. Chúng gắn với các bộ phận khác nhau của HER2. Protein HER2 đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư. Trastuzumab là một loại kháng thể đặc biệt, tấn công vào tế bào ung thư có HER2 dương tính. Khi bám vào protein HER2, Trastuzumab có thể làm chậm hoặc làm ngưng sự phát triển của các tế bào ung thư này.
Sử dụng thuốc điều trị đích (Kháng HER2) để tiêu diệt tế bào ung thư và gần như không làm hại gì đến tế bào khỏe mạnh khác.
Các nghiên cứu cho thấy hóa trị kết hợp với Trastuzumab sẽ giúp giảm một nửa nguy cơ tái phát ung thư vú so với chỉ sử dụng hóa trị riêng lẻ ở những bệnh nhân mắc ung thư vú dương tính với HER2.
Trastuzumab được đưa vào sử dụng tại Việt Nam từ năm 2006. Nó được chỉ định cho bệnh nhân ung thư vú có HER2 dương tính ở giai đoạn sớm cũng như tái phát di căn. Nhưng trong thực tế số lượng bệnh nhân được điều trị với trastuzumab tại Việt Nam không nhiều do: giá thành thuốc cao; thời gian điều trị bổ trợ kéo dài 1 năm; liên quan đến độc tính tim mạch. Do vậy việc xác định tình trạng HER2 có thực sự dương tính không rất quan trọng cho các bác sỹ lâm sàng đưa ra hướng điều trị.
Xét nghiệm hóa mô miễn dịch giúp đánh giá tình trạng bộc lộ HER2 neu của khối u. Nó là một xét nghiệm thường quy trong chẩn đoán một bệnh phẩm Ung thư vú nguyên phát.
Có thể phản ứng giống như cúm nhẹ với liều đầu tiên của trastuzumab bao gồm sốt, ớn lạnh, nhức đầu, đau cơ, và buồn nôn. Phản ứng này ít phổ biến với liều thứ hai và thứ ba. Mặt khác, các tác động có thể bao gồm tổn thương tim.
Phản ứng phụ thường gặp của pertuzumab là tiêu chảy, buồn nôn, và cảm thấy mệt mỏi. Ít phổ biến tác dụng phụ bao gồm phát ban da, hạ bạch cầu và vết loét miệng. Hiện vẫn chưa rõ ràng pertuzumab gây tổn thương tim.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh