1. Thông tin khoa học:
2. Mô tả cây:
3. Phân bố:
Ở Việt Nam, tất cả các loài thuộc chi Paris đều đang bị khai thác ráo riết để làm thuốc và bán qua biên giới khiến nguồn dược liệu này trong tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Nguyen Quynh Nga et al. (2016) đã thống kê và ghi nhận 8 loài và 2 thứ thuộc chi Paris phân bố rải rác ở một số tỉnh miền núi phía Bắc cho tới vùng núi cao miền Trung và Tây Nguyên. Trong đó, P. vietnamensis H.Li là một trong những loài có phân bố rộng nhất.
Quan sát các quần thể của loài này trong tự nhiên cho thấy tỉ lệ đậu hạt và khối lượng thân rễ của các cá thể khá cao so với các loài khác trong chi. Để phát triển nguồn dược liệu, Bảy lá một hoa Việt Nam đang được các cơ sở nghiên cứu tích cực thu thập trong tự nhiên để nghiên cứu, bảo tồn và nhân trồng.
4. Cách trồng:
Bảy lá một hoa là cây thích nơi có khí hậu ẩm mát, ít gió nhưng không chịu úng. Cây chưa được trồng trên quy mô lớn mà chỉ ở phạm vi các vườn cây thuốc ở một số địa phương.
Cây được nhân giống bằng hạt hoặc bằng thân rễ. Hằng năm, vào tháng 10-11, thu lấy quả chín đem gieo ngay trong vườn ươm hoặc phơi khô để đến mùa xuân năm sau mới gieo. Mỗi cây chỉ có một hoa, mỗi hoa chỉ có một ít hạt nên hệ số nhân giống bằng hạt không cao. Thân rễ bảy lá một hoa có nhiều đốt chứa mắt ngủ, có thể tách ra từng đoạn để trồng.
Thời vụ:
Làm đất:
Mật độ:
Bón phân:
Thu hoạch:
5. Bộ phận dùng:
Thân rễ. Thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu đông. Dùng tươi hoặc phơi khô.
6. Thành phần hóa học
Từ cao phân đoạn etyl axetat phần thân rễ bảy lá một hoa (PPC) đã phân 6 hợp chất tinh khiết gồm: diosgenin, hỗn hợp hai chất stigmasterol-3-O-β-D-glucopyranosid và β-sitosterol-3-O-β-D-glucopyranosid, gracillin, paris saponin D, paris saponin H.
Từ cao phân đoạn etyl axetat và butanol phần trên mặt đất loài PPC phân lập được 15 hợp chất tinh khiết: trong đó có 1 hợp chất mới là 12-hydroxy-diosgenin-3-O-α-L-rhamnopyranosyl-(1→2)-[α-L-rhamnopyranosyl-(1→3)]-β-D-glucopyranosid, 5 hợp chất lần đầu tiên phân lập từ chi Paris gồm 1-O-α-linolenoyl-3-β-D-galactopyranosyl-glyxerol, stigmasterol, thymidin, resveratrol, ε-viniferin; 2 hợp chất lần đầu tiên phân lập từ PPC gồm quercetin, quercetrin; và 7 hợp chất khác là pennogenin, stigmasterol-3-O-D-glucosid, diosgenin-3-O-α-L-rhamnopyranosyl-(1→4)-β-D-glycopyranosid, diosgenin-3-O-α-Lrhamnopyranosyl-(1→2)-β-D-glycopyranosid, dioscin, paris saponin II, và paris saponin VII.
7. Tác dụng dược lý:
Glucosid α-paristyphnin chiết từ bảy lá một hoa gây một cảm giác râm ran, và có tác dụng ức chế trên huyết áp động mạch cảnh, cơ tim và cử động hô hấp. Nó gây co mạch thận, nhưng lại gây giãn mạch lách và các chi, kích thích ruột cô lập động vật thí nghiệm. Những tác dụng này không bị atropin hoặc ergotoxin làm thay đổi.
Đã nghiên cứu hoạt tính chống đột biến của cao nước bảy lá một hoa thường được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc làm thuốc trị ung thư, bằng cách dùng hệ thống Salmonella/tiểu thể với sự có mặt của acid picrolonic hoặc benzo (a) pyren để kiểm tra xem dược liệu này có chứa những chất chống đột biến trực tiếp hoặc gián tiếp không. Chiết cao thô bảy lá một hoa với nước đun sôi trong 2 giờ là phương pháp thường được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc để bào chế thuốc sắc uống. Đã nhận xét thấy cao nước bảy lá một hoa có tác dụng chống đột biến ở mức vừa đối với sự đột biến gây ra bởi acid picrolonic. Bảy lá một hoa chứa những yếu tố chống đột biến đối với cả sự đột biến gây bởi acid picrolonic và benzo (a) pyren.
Bảy là một hoa có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loài vi khuẩn gây bệnh và có hoạt tính chống ung thư đối với những khối u thực nghiệm. Đã phân lập từ thân rễ một số glucosid steroid, được coi là chịu trách nhiệm chính về hoạt tính sinh học này. Những glucosid steroid chủ yếu là glucosid của diosgenin và pennogenin, được chứng minh có tác dụng cầm máu cũng như tác dụng làm tăng lực co cơ của tim ếch cô lập.
8. Tính vị, công năng
Thân rễ bảy lá một hoa còn gọi là tảo hưu, có vị đắng, hơi cay, tính hơi lạnh, hơi độc, vào kinh can, có tác dụng xổ hạ, lợi tiểu, tiêu đờm, thanh nhiệt, giải độc.
9. Công dụng:
Ở Trung Quốc, vị thuốc tảo hưu được chế biến từ thân rễ nhiều loại cây thuộc chi Paris mọc ở những tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc đã được dùng chủ yếu làm thuốc chữa sốt, giải độc và chữa ho.
Liều dùng:
Kiêng kỵ:
Bài thuốc có bảy lá một hoa
Chữa trẻ em kinh sài, tay chân co giật: Thân rễ bảy lá một hoa, sấy khô tán bột, uống mỗi lần 0.5 – 1g, ngày 4- 5 lần
Chữa trẻ em sốt cao co giật hoặc quai bị, lên sởi và các chứng sung viêm phát sốt: Thân rễ bảy lá một hoa (4g), thiên hoa phân (8g), bạc hà (12g). Sắc uống.
Chữa rắn độc cắn, nhọt ở vú, viêm phổi: Thân rễ bảy lá một hoa (4 – 20g). Sắc uống
Chữa hen suyễn, ung thư phổi: Thân rễ bảy lá một hoa (4 – 20g) phối hợp với các vị thuốc khác
Chữa lòi dom: Thân rễ bảy lá một hoa mài với giấm bôi rồi đẩy vào
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh