✴️ Vị thuốc cây Sui

Nội dung

A. Mô tả cây 

  • Cây sui là một loại cây lớn, có thể cao tới 30m, có gốc rất lớn. Lá nhị lệ, có cuống dài 8-10 cm, phiến lá dài chừng 6cm, rộng khoảng 5,5cm. Cả hai mặt lá đều hơi nháp.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá, cùng gốc: hoa đực mọc tụ trên một đế hoa phồng phồng khum lên, quanh đế hoa có tổng bao gồm nhiều hang lá bắc, hoa cái mọc đơn độc trên một đế cũng có tổng bao.
  • Quả thịt dài 18mm, dày 12mm, hạt hình trứng, dài 13mm, rộng 8mm.

B. Phân bố thu hái 

  • Cây sui mọc hoang khá nhiều ở các miền núi Việt nam. Ngoài ra còn mọc hoang cả ở miền Nam Trung quốc (Hải Nam), Ấn Độ, Indonexia và Malaixia.
  • Nhân dân vẫn thường dùng lấy nhựa sui bằng cách băm vỏ cây, thu nhập nhựa chảy ra, dùng để tẩm tên thuốc độc bằng tre hay bằng kim loại để săn bắn thú dữ lớn. Vỏ cây sui được làm chăn đắp hay may quần áo hoặc làm túi đựng các đồ vật.

C. Thành phần hoá học 

  • Nhựa sui được nghiên cứu tại các nước từ lâu.
  • Năm 1890 người ta đã phân tích lấy được từ trong nhựa sui hai chất glucozit làm mạnh tim, độc gọi là anpha antiarin (α-antiarin) và beta antiarin (β-antiarin), αC29H42O11.4H2O là một chất bột có tinh thể, phản ứng trung tính. Nó tan trong 250 phần nước ở 200 và 27 phần nước sôi, 70 phần rượu 850, 2.800 phần ester
  • Thuốc thử kiliani (axit sunfuric có pha sắt ba dunfat) hoà tan antiarin cho dung dịch màu vàng sau ngả màu vàng cam.

Thành phần hoá học 

  • HCl pha loãng trong môi trường rượu đun sôi, thuỷ phân antiarin để cho một đường tương tự như ramnoza gọi antiaroza hay d gulometyloza C6H12O5 và một chất không đường có tinh thể gọi là antiarigenin có độ chảy 180oC
  • Α-antiarin chảy ở 242oC (có tài liệu nói độ chảy của antiarin.4H2O là 220-225oC) độ quay cực αD=-40 β-antiarin C29H42O11.3H2O có cùng một công thức như α-antiarin, nhưng ngậm có 3 phân tử nước. thuỷ phân β-antiarin cho 1.ramnoza và antiarigenin β-antiarin có tinh thể hình kim hay hình trụ. Độ chảy 225oC (có tài liệu nói 206-207oC)
  • Cả hai chất α-antiarin β-antiarin khi thuỷ phân mạnh đều cho dihydroantiagenin. Do đó các tác gỉ Tschesche và Haupt (1936) cũng như Reichstein (1948) cho rằng hai chất antiarin chỉ khác nhau do phần đường mà thôi và antiaroza hay d.gulometyloza ở antiarin cũng chỉ là đồng phân cỏa 1.ramnoza (ở antiarin)

D. Tác dụng dược lý 

Các chất α và β-antiarin đều rất độc và có tác dụng mạnh tim:

  1. Theo Trần Khắc Khôi (1937, J.Am.Pharm-Assoc:26:214), tác dụng của β-antiarin mạnh hơn α-antiarin

  2. Theo Ridley H.H (1930 J.Trop.Med.Hyg:185:186) thì nhựa sui nguyên chất sánh và hấp thụ chậm
    Tiêm dưới da cho chó không gây độc thường xuyên. Nhưng nếu dùng nước sắc của cây mã tiền Strychnos ovalifolia để làm lỏng nhự sui rồi cũng tiêm dưới da như trên thì làm con chó thở mau, khó nhọc, nôn mửa, co quắp rồi chết

  3. Năm 1949 hai tác giả Trung quốc toàn Từ Quang và Hàn Triết Vũ (Trung hoa y học tạp chí 31:120) có báo cáo về độc tính của antiarin

  4. Thường người ta cho rằng nhựa sui uống không độc, nhưng nếu có vết thương, vết loét nhựa vào thẳng máu thì rất độc. Nó gây kích ứng mạnh trên da và có thể gây viêm mắt nguy hiểm, tuy nhiên người ta ăn thịt những con vật bị tên tẩm nhựa sui bắn chết mà không có hiện tượng ngộ độc.

E. Công dụng và liều dùng

  • Có người cho rằng nhựa sui uống vào chữa đau bụng và gây ỉa mạnh nhưng việc sử dụng rất nguy hiểm có thể chết người.
  • Thường người ta chỉ hay dùng nhựa sui tẩm tên độc để săn bắn các thú rừng lớn. Thịt những thú rừng săn được mềm mại ăn được.
  • Muốn làm chân sui thay thế vỏ sui may quần áo, người ta ngâm vỏ cây sui trong hồ ao trong vài ngày. Sau đó bóc lấy vỏ. khi làm vỏ cần chú ý tay và cánh tay không có vết sây sát, thương tổn, vì nếu để nhựa sui vào máu thì bị độc rất nguy hiểm. Cần chú ý nghiên cứu.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top