Tên tiếng Việt: Hồi, Mạy chác, Mác hồi (Tày), Bát giác hồi hương, Hồi sao, Pít cóc (Dao)
Tên khoa học: Illicium verum Hook.f.
Họ: Illiciaceae (Hồi)
Công dụng: Thuốc kích thích tuần hoàn, lợi trung tiện. Chữa đau bụng (Tinh dầu).
A. Mô tả cây
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây hồi đặc biệt chỉ mọc trong một khu vực nhỏ chiếm khoảng 5.000km2 ởtỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, một số ít ở hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông (Trung Quốc) giáp giới Việt Nam. Một số nơi khác cũng có trồng nhưng không đáng kể như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Trước đây người ta thường lẫn nó với cây hồi Nhật Bản Illicium anisatum Lour, có chất độc, hoặc cây hồi núi cũng có chất độc.
C. Thành phần hoá học
D. Tính vị, công năng
Hồi có vị cay, mùi thơm, tính ấm vào 4 kinh can, thận, tỳ, vị có tác dụng trừ hàn, khai vị, kiện tỳ, chống nôn, chỉ thống, trừ phong, sát trùng.
E. Công dụng và liều dùng
Hồi là một vị thuốc được dùng trong cả đông y và tây y.
Tây y dùng hồi làm thuốc trung tiện (carminatii), giúp tiêu hoá, lợi sữa. Tác dụng trên hệ thống thần kinh và cơ (dịu đau, dịu co bóp) được dùng trong đau dạ dày, đau ruột và trong những trường hợp dạ dày và ruột co bóp quá mạnh. Ngoài ra còn được dùng làm rượu khai vị, làm thơm thuốc đánh răng. Tuy nhiên nếu dùng nhiều và với liều cao quá sẽ gây ngộ độc, với hiện tượng say, run chân tay, sung huyết não và phổi, trạng thái ngay có khi tới co giật như động kinh.
Theo tài liệu cổ đại hồi có vị cay, tính ôn, vào 4 kinh can, thận, tỳ và vị. Có tác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc của thịt cá. Những người tán hư, hoà vượng không đùng được.
Bài thuốc có hồi
Chữa trúng phong, bại liệt một bên mình: Hồi 12g, quế chi 20g, đinh hương, rau sam, dây bìm bìm, cây nghệ, lá cây dâu gió, xương bồ, huyết giác đều 12g. Tán nhỏ trộn với một bát rượu và một bát nước tiểu dùng xoa bóp.
Chữa phong thấp: Hồi, hồ tiêu, phèn chua, đều bằng nhau. Giã nhỏ, xoa bóp vào chỗ đau.
Chữa đau tức ngực, toát mồ hôi lạnh: Hồi, ô dược, thanh bì, riềng, các vị đều nhau. Sao (trừ hồi và ô dược), tán nhỏ, uống với rượu đun nóng và đồng tiện.
Chữa đau lưng: Hồi (bỏ hạt) tẩm với nước muối sao, tán nhỏ. Mỗi lần uống 6-10g với rượu. Ngoài dùng lá ngải cứu trườm nóng vào lưng.
Chữa đau rang: Hồi, phèn chua, sáp ong, cà gai leo, lượng bằng nhau, muối một ít. Sắc lấy nước ngâm.
Chữa sai khớp bong gân: Cao dán gồm những thành phần như tinh dầu hồi, quế, menthol, camphor, ngải cứu, cúc tần
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh