Một vài nghiên cứu đã mô tả đặc điểm siêu âm thường gặp của các tổn thương lành tính ở vú:
Tổn thương ác tính thường là tổn thương giảm âm với đường bờ không rõ. Thông thường, một tổn thường ác tính biểu hiện dưới dạng tổn thương khối giảm âm, chiều cao lớn hơn chiều rộng và đường bờ tua gai, tăng âm phía sau và vi vôi hóa (hình 8A-F). Máy quét ba chiều với khả năng tái tạo hình ảnh độ phân giải cao trong mặt phẳng vành cung cấp thêm thông tin quan trọng. Sự mở rộng dạng tua gai dọc theo mặt phẳng mô có thể được nhìn thấy rõ trên mặt cắt vành (hình 9A,B). Ban đầu người ta tin rằng siêu âm Doppler màu sẽ thêm độ đặc hiệu của siêu âm nhưng điều này không cho thấy hiệu quả nhiều; tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó giúp giải quyết vấn đề, đặc biệt khi xuất hiện nhiều mạch máu trong các loại tế bào ác tính cao (hình 10).
Hình 8 (A-F) Tổn thương ác tính: Mặt cắt ngang (A) cho thấy cấu trúc ác tính điển hình với chiều cao lớn hơn rộng, giảm âm. Đầu mũi tên cho thấy đường bờ đa cung không đều. Một số cấu trúc có thể biểu hiện cấu trúc dạng nhánh (mũi tên trong hình B). Mặt cắt dọc (C) cho thấy cấu trúc với đường bờ đa cung; hiện diện nhiều hơn 3 – 4 múi nhỏ là nghi ngờ ác tính. Mặt cắt dọc (D) và cắt ngang (E) cho thấy giãn ống dẫn sữa (mũi tên). ‘M’ cho thấy tổn thương nguyên phát trong hình (E). Giãn ống dẫn sữa biểu hiện đường bờ mềm mại trong mặt cắt dọc (đầu mũi tên ở hình E). Mặt cắt ngang (F) cho thấy tổn thương ác tính điển hình với đường bờ tua gai không đều, vi vôi hóa và phân nhánh. Đây là tổn thương được xếp loại BIRADS 4 trên siêu âm.
Hình 9 (A,B) Tổn thương ác tính. Mặt cắt ngang (A) cho thấy đường bờ mềm mại, xếp loại BIRADS 3. Tuy nhiên, hình ảnh 3D trong mặt cắt vành (B) cho thấy đường bờ tua gai với hình dạng tia mặt trời, được xếp loại BIRADS 4.
Hình 10. Tổn thương ác tính. Đường bờ mềm mại và hồi âm đồng nhất được xếp loại BIRADS 3. Doppler màu cho thấy tăng sinh các nhánh mạch máu không đều.
Hình 11. Minh họa đường bờ (margin): circumscribed (đều), obscured (không rõ), microlobulated (đa cung nhỏ), indistinct (không xác định), spiculated (tua gai).
Bảng 1. Tiêu chuẩn đánh giá ung thư biểu mô vú điển hình
Hình dạng |
Không đều |
Chiều hướng |
Không song song |
Đường bờ |
Không rõ, gập góc, đa cung nhỏ, tua gai, (tua gai là đặc hiệu nhất, gập góc là hay gặp nhất trong ung thư) |
Giới hạn tổn thương |
Viền hồi âm dày |
Cấu trúc hồi âm |
Hồi âm kém, hồi âm hỗn hợp |
Thay đổi âm phía sau |
Tạo bóng lưng phía sau |
Mô xung quanh |
Biến dạng cấu trúc: – Thay đổi cấu trúc ống ( không đều, giãn) – Thay đổi dây chằng Cooper ( gián đoạn, co rút) – Dày da, co rút, không đều. |
Vôi hóa |
Vi vôi hóa trong khối u |
Phân bố mạch máu |
Hiện diện trong tổn thương hoặc sát tổn thương. |
Hình 12. Hình ảnh siêu âm vú ở bệnh nhân nữ 63 tuổi với một khối vú phải #1,4cm ban đầu được xác định trên nhũ ảnh. Siêu âm vú thấy khối đặc giảm hồi âm, hình bầu dục và đường bờ đa cung. Kết quả sinh thiết là ung thư biểu mô ống tuyến xâm lấn (invasive ductal carcinoma)
Hình 13. a) Chụp nhũ ảnh ở bệnh nhân nữ 43 tuổi cho thấy nhiều nốt vi vôi hóa nghi ngờ phân bố gián đoạn (mũi tên). b) Hình ảnh siêu âm tương ứng cho thấy nhiều nốt vi vôi hóa (1-2mm) và khối giảm âm với giãn ống dẫn sữa (mũi tên). Kết quả sinh thiết là ung thư biểu mô ống tuyến tại chỗ (Ductal Carcinoma in Situ- DCIS) giai đoạn 3.
Mặc dù không thể phân biệt được tất cả tổn thương lành tính với tổn thương ác tính của khối dạng đặc ở vú bằng việc sử dụng các tiêu chuẩn trên siêu âm, mục đích của siêu âm vú là xác định một nhóm nhỏ các khối đặc có nguy cơ ác tính thấp được lựa chọn để theo dõi một khoảng thời gian ngắn thay vì sinh thiết. Trong 4 năm theo dõi các khối đặc sờ thấy, đường bờ đều, không vi vôi hóa (tương đương BIRADS 3), Graf và cộng sự thấy rằng các trường hợp như vậy có thể được kiểm soát đầy đủ bằng việc theo dõi thời gian ngắn mỗi 6 tháng trong 2 năm.
Các nghiên cứu kết hợp siêu âm và nhũ ảnh đã chứng minh giá trị tiên đoán âm gần 100% đối với tổn thương vú sờ thấy khi cả hai kỹ thuật được sử dụng cùng lúc.
Trong một nghiên cứu dựa trên đặc điểm của khối ở vú dựa theo tiêu chuẩn BIRADS trên siêu âm, Kwak và cộng sự không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa chọc hút tế bào bằng kim nhỏ và siêu âm liên quan đến độ nhạy và giá trị tiên đoán âm (P> 0,05). Heinig và cộng sự cũng tìm thấy đặc điểm siêu âm của tổn thương vú bằng việc sử dụng tiêu chuẩn BIRADS để có độ chính xác cao.
Tìm hiểu thêm về đặc điểm các khối trên siêu âm
Xem thêm chủ đề: Chụp Xquang tuyến vú diễn ra như thế nào?
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh