ĐẠI CƯƠNG VỀ THIẾU MÁU TAN MÁU MIÊN DỊCH
Thiếu máu tan máu miễn dịch là hậu quả của sự hình thành các kháng thể bất thường chông lại kháng nguyên có trên hồng cầu, kháng thể bất thường đó là tự kháng thể,
Bản chất của thiếu máu tan máu miễn dịch
Hậu quả của sự hình thành các kháng thể bất thường chông lại kháng nguyên có trên hồng cầu của bệnh nhân mà thường gặp là kháng thể IgG, IgM gắn bổ thể, do đó gây nên hiện tượng vỡ hồng cầu.
Hiện tượng vỡ hồng cầu nội mạch (trong lòng mạch) là phản ứng kháng nguyên - kháng thể - bổ thể trên bề mặt hồng cầu bởi IgG hoặc IgM.
Hiện tượng vỡ hồng cầu ngoại mạch (trong tổ chức liên võng: gan, lách, ngoài lòng mạch...) bởi hiện tượng thực bào, chúng ăn các hồng cầu gắn kháng thể.
Khái niệm sơ lược về kháng thể miễn dịch
Miền dịch đồng loại
Thiếu máu tan máu miễn dịch do kháng thể miễn dịch đồng loại, thường gặp trong một số các trường hợp sau:
Thiếu máu tan máu trẻ sơ sinh do bất đồng nhóm máu hệ Rh giữa mẹ và con (mẹ Rh - mà con Rh+), hoặc hệ ABO mà thường là mẹ nhóm máu o, con nhóm máu A.
Do truyền nhóm máu “O nguy hiểm”, do anti A hoặc anti B hiệu giá cao bất thường.
Do truyền nhầm nhóm máu hệ ABO không phù hợp.
Do sự thành lập kháng thể miễn dịch bất thường trong trường hợp truyền máu không đồng nhóm máu phụ, không đồng hệ thông kháng nguyên bạch cầu, không đồng nhóm máu hệ tiểu cầu và không đồng nhóm máu hệ Rh.
Miễn dịch khác loại
Hậu quả của sự kích thích do một kháng nguyên động vật hay thực vật mà cấu trúc hoá học rất giống kháng nguyên của nhóm hồng cầu, thể hiện trong các trường hợp sau:
Tình trạng tăng miễn dịch bằng cách tiêm một thứ thuốc có mang kháng nguyên như: các vaccin có khống độc tố (chống bạch hầu, uốn ván...v.v...) vì trong các thành phần này có kháng nguyên A và B.
Hoặc dùng một số thuốc điều trị bào chế từ động vật (tinh chất dạ dày, gan, thành phần kháng hemophilie của lợn...)
Hoặc gây miễn dịch ỏ những người tình nguyện với chất Witebiky để điều chế huyết thanh mẫu.
Do mất chức năng ức chế bình thường của lympho T
Nhiều giả thuyết được nêu lên trong cơ chế tan máu tự miễn mà kháng thể tự sinh chỉ chông lại một cách đặc biệt các kháng nguyên nhóm hồng cầu, là một cơ chê thiếu máu tan máu tự miễn dịch rất phức tạp, nhưng có một điểm rất chung là: “Mất chức nàng ức chế bình thường của lympho T”, bởi một nguyên nhân nào đó làm cho lympho T không dung nạp được nữa thì lympho B sẽ tự do sinh sản ra kháng thể bất thường, được thể hiện trên một sô" các trường hợp sau đây:
Cơ chế phản ứng chéo: khi bị nhiễm liên cầu khuẩn (Streptococcus) sẽ gây nên kháng thể chống tim, chông thận vì Streptococcus có kháng nguyên chung với thận và tim. Lympho T đặc hiệu cho kháng nguyên Streptococcus thay chỗ của khống nguyên tim, thận và do đó lympho B không bị cản trở nữa sẽ sản xuất ra kháng thể tự sinh.
Cơ chế khống nguyên bị che lấp: trong quá trình phát triển bào thai có một sô” tổ chức không có huyết quản nên không tiếp xúc với các clon lympho tương ứng, do đó chúng “không bị cấm”, nếu vì một sự chấn thương mà tổ chức không có huyết quản đó đi vào tuần hoàn sẽ có phản ứng đặc hiệu chống lại, thí dụ tinh thể mắt, tinh hoàn v.v...
Vai trò của virus: cơ chế kháng nguyên riêng của virus có thể hiện trên
màng tế bào bị nhiễm và gây tổn thương lympho bằng cách virus sát nhập vào genom tế bào làm mất chức năng bình thường của lympho T và chuyển thành ác tính .Vì vậy thiếu máu tan máu miễn dịch cũng có gặp trong một sô bệnh ốc tính.
Phân biệt kháng thể tự nhiên và kháng thể miễn dịch
Sự phân biệt này rất cơ bản về nhận thức của thiếu máu tan máu miễn dịch. Kháng thể tự nhiên bản chất là kháng thể hoạt động tốt nhất ở 37°c (còn gọi là khống thể nóng). Hai loại kháng thể tự nhiên và khống thể miễn dịch được phân tích trên một khoảng chi tiết sau đây:
Kháng thể nóng và kháng thể lạnh
Bệnh lý thiếu máu tan máu miễn dịch có liên quan chặt chẽ đến kháng thể nóng và kháng thể lạnh.
Kháng thế nóng
Bản chất của nó là loại kháng thể thiếu.
Không hoạt động ả môi trường muối
Tiến hành phát hiện bằng cốc kỹ thuật sau:
Phản ứng trong môi trường albumin
Nghiệm pháp Coombs gián tiếp
Xử lý hồng cầu bằng men
Ở nhiệt độ 70°c/10 phút kháng thể không bị huỷ nên gọi là kháng thể chịu nhiệt.
Không bị trung hoà bởi chất Witebsky
Nếu có bổ thể có thể gây tan máu
Hiệu giá kháng thể miễn dịch rất thay đổi tăng lên rõ rệt ở môi trường albumin, còn hiệu giá kháng thể tự nhiên tăng lên rõ rệt ở môi trường muối.
Kháng thể nóng thường là loại IgG và chỉ phản ứng với hồng cầu ở nhiệt độ 37°C và còn hơn nữa.
Kháng thể lạnh
Kháng thể lạnh thuộc typ IgM gây ngưng kết hồng cầu ở nhiệt độ lạnh (< 37°C).
Kháng thể lạnh của bệnh nhân tan máu đều phản ứng với một kháng nguyên mang tên kháng nguyên I (kháng nguyên I này có mặt hầu hết ở những người bình thường, nhưng ở trẻ sơ sinh chưa có kháng nguyên I).
Kháng thể lạnh IgM gặp trong các trường hợp thiếu máu tan máu miễn dịch thứ phát.
Kháng thể lạnh hoạt động tốt nhất ở nhiệt độ 4°C có thể hoạt động được ở
nhiệt độ 22°C - 37°C
Tóm lại:
Thiếu máu tan máu miễn dịch có liên quan đến nhiều lĩnh vực tế bào, miễn dịch, sinh hoá...v...v...
Bệnh lý thiếu máu tan máu miễn dịch rất phức tạp vì gặp nhiều nguyên nhân bệnh gây nên nó.
Trong điều trị thiếu máu tan máu miễn dịch kháng thể nóng dùng corticoid liệu pháp và cắt bỏ lách có hiệu quả hơn trong thiếu máu tan máu miễn dịch kháng thế lạnh.
BỆNH LÝ THIẾU MÁU TAN MÁU MIÊN DỊCH DO KHÁNG THỂ ĐỒNG LOẠI VÀ ĐIỂU TRỊ
Do yếu tố Rh
Gặp trong thiếu máu trẻ sơ sinh do bất thường hệ Rh giữa mẹ và con (mẹ Rh- và con Rh+).
Thiếu máu tan máu ở trẻ sơ sinh vẫn là một bệnh tan máu do mắc phải. Bệnh xảy ra do hồng cầu của thai nhi bị vỠ bởi kháng thổ đồng loại của mẹ tràn qua rau thai mà vào thai nhi.
Lâm sàng
Sự bất đồng nhóm máu mẹ và con, thường biểu hiện:
Mẹ tiền sử sẩy thai liên tiếp (thường sẩy thai vào tháng thứ tư)
Trẻ đẻ non, hoặc đẻ ra chết ngay vì có triệu chứng phù, thiếu máu nặng, gan to, lách to.
Nếu trẻ ra đời mà còn sống thì cũng có triệu chứng thiếu máu, vàng da, vàng niêm mạc, gan to, lách to, có thể có hội chứng xuất huyết và nếu có hội chứng vàng da nặng sẽ gây nên tổn thương hệ thần kinh không hồi phục.
Xét nghiệm
Số lượng hồng cầu giảm nặng
Hồng cầu lưới tăng
Hồng cầu non ra máu ngoại vi
Bilirubin toàn phần tăng, bilirubin gián tiếp tăng cao (bilirubin bình thưòng toàn phần 17 μmol/lít, gián tiếp 12,7μmol/l, trực tiếp 4,3μmol/l).
Nghiệm pháp Coombs trực tiếp (+) ở máu, chứng tỏ hồng cầu còn đà bị cảm nhiễm bởi kháng thể của mẹ.
Nghiệm pháp Coombs gián tiếp với huyết thanh mẹ dương tính (+) chứng tỏ có hiện tượng kháng thể không bình thường ở mẹ.
Xác định nhóm máu hệ ABO và hệ Rh ở cả mẹ và con thì có sự bất đồng (có thể xét nghiệm ở người cha về nhóm máu).
Tìm đặc hiệu của kháng thể với Panel hồng cầu.
Nếu một người mẹ đã có tiền sử sẩy thai liên tiếp vào tháng thứ tư, khi mang thai lại thì phải làm hiệu giá kháng thể bất thường ở mẹ vào các tháng thứ 3, 6, 7 và tháng thứ 9.
Điều trị cho con
Cần thay máu khi trẻ mới ra đời:
Thay vào 3 giờ đầu thường có kết quả tốt. Thay máu vào 6 giờ đầu vẫn còn tốt. Nếu thay máu muộn khi đã có triệu chứng nhiễm độc thần kinh thì điều trị không có kết quả.
Lượng máu dùng để thay máu khoảng 300ml - 500ml (200ml/kg).
Sử dụng máu để thay:
Máu cùng nhóm hệ ABO và hệ Rh(+) (truyền vào sẽ hút bớt kháng thể tự do). Thực tế thay máu lần đầu vẫn dùng hệ Rh(-) sẽ tốt hơn Rh(+) (vì kháng thể miễn dịch của mẹ tràn vào máu con làm vỡ hồng cầu RS + mà có ở con). Không nên cho trẻ bú sữa mẹ.
Do truyền máu nhóm O nguy hiểm
Nhóm máu O có kháng thể kháng A tự nhiên và kháng thể kháng B tự nhiên.
Ví dụ: nếu đem truyền nhóm máu 0 cho người bệnh nhân có nhóm máu A (trên hồng cầu người có nhóm máu A thì có kháng nguyên A). Vì thế, nếu muốn truyền máu nhóm 0 cho người có nhóm máu khác cần tách phần plasma mà chỉ nên truyền khôi huyết cầu hoặc hồng cầu khối.
Lâm sàng: có hội chứng thiếu máu, hội chứng vàng da mắt.
Xét nghiệm
Làm hiệu giá kháng thể
Xác định lại hệ nhóm máu ABO.
Điều trị
Truyền hồng cầu rửa
Corticoid liệu pháp.
Dự phòng
Nên truyền máu cùng nhóm
Nếu truyền máu nhóm O thì chỉ truyền khối huyết cẩu hoặc hồng cầu và chỉ truyền khi thấy cần thiết
Do tai biến miễn dịch vì truyền máu không đống nhóm máu phụ
Thường là tan máu nội mạc, do sự thành lập kháng thể miễn dịch sau từ 4 đến 14 ngày sau truyền máu trong trường hợp truyền máu không đồng nhóm máu phụ (các hệ Kell, MNSs, Lewis, p, Lutheran, Duffy, Kidd...), có thể truyền máu không đồng nhóm hệ thống kháng nguyên bạch cầu người HLA (có mặt trên tất cả các mô trừ trên hồng cầu, nhưng nó cũng có can thiệp vào trong một số vấn đề truyền máu vì nó vẫn có mặt trên bạch cầu và tiểu cầu), nhóm máu hệ tiểu cầu và hệ Rh.
Hoặc do trong máu người nhận (người dược truyền máu nhiều lần đã xuất hiện khống thể chông lại bạch cầu, tiểu cầu...).
Lâm sàng
Hội chứng thiếu máu tan máu miễn dịch thường xảy ra rõ nhất sau 4 - 14 ngày truyền máu: vàng da, vàng niêm mạc.
Xét nghiệm
Số lượng hồng cầu giảm
Xốc định là nhóm máu hệ ABO, và hệ nhóm máu phụ bằng Panel hồng cầu.
Hiệu giá kháng thể
Bilirubin (toàn phần, gián tiếp).
Điều trị
Corticoid liệu pháp: liều dùng từ 1 - 3 mg/kg/ngày, điều trị 2 tuần liên tục, tuần thứ 3 giảm liều dần và hết tuần thứ 4.
Các biệt dược: Prednison 5 mg/ viên Depersolon 30 mg/ ống Solumedrol 40 mg/ ống
Kết hợp truyền hồng cầu rửa khi có thiêu máu nặng.
Biện pháp phòng ngừa: Chỉ truyền máu khi thật cần thiết.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh