Bạch cầu gồm có 3 loại chính: bạch cầu hạt, tế bào lympho và bạch cầu đơn nhân.
Bạch cầu hạt là các tế bào bạch cầu có các hạt nhỏ chứa protein. Có ba loại tế bào bạch cầu hạt:
Những tế bào bạch cầu này bao gồm:
Bạch cầu đơn nhân chiếm khoảng 2 - 8% tổng số tế bào bạch cầu trong cơ thể. Chúng có mặt khi cơ thể chống lại nhiễm trùng mãn tính. Các bạch cầu đơn nhân nhắm mục tiêu và phá hủy các tế bào gây nhiễm trùng.
Theo một bài báo trên American Family Physician, phạm vi bình thường (tính trên một milimét khối) của các tế bào bạch cầu dựa trên tuổi là:
Tuổi |
Mức độ bình thường/ mm3 |
Trẻ sơ sinh |
13000 - 38000 |
Trẻ được 2 tuần tuổi |
5000 - 20000 |
Người trưởng thành |
4500 – 11000 |
Số lượng bạch cầu trong máu của thai phụ vào thời kì tam cá nguyệt thứ 3 dao động trong khoảng từ 5800 – 13200/mm3
Số lượng bạch cầu cao có thể do các tình trạng sau đây:
Các tình trạng có thể gây giảm bạch cầu bao gồm:
Bác sĩ có thể liên tục theo dõi các tế bào bạch cầu để xác định xem cơ thể có đang đáp ứng miễn dịch với nhiễm trùng hay không.
Khi kiểm tra sức khỏe, bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm máu các chỉ số bạch cầu (WBC) nhằm kiểm tra hoặc loại trừ các tình trạng khác có thể ảnh hưởng đến các tế bào bạch cầu. Mặc dù mẫu máu là phương pháp phổ biến nhất để kiểm tra các tế bào bạch cầu, tuy nhiên cũng có thể kiểm tra các chất dịch cơ thể khác chẳng hạn như dịch não tủy cũng có sự hiện diện của các tế bào bạch cầu.
Bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm bạch cầu (WBC) trong các trường hợp như:
Sau đây là những tình trạng có thể ảnh hưởng đến số lượng tế bào bạch cầu trong cơ thể.
Thiếu máu bất sản: Là tình trạng trong đó cơ thể bị phá hủy các tế bào gốc trong tủy xương. Tế bào gốc chịu trách nhiệm tạo ra các tế bào bạch cầu, tế bào hồng cầu và tiểu cầu mới.
Hội chứng Evans: Đây là một tình trạng tự miễn dịch trong đó hệ thống miễn dịch của cơ thể phá hủy các tế bào khỏe mạnh, bao gồm cả các tế bào hồng cầu và bạch cầu.
HIV: HIV có thể làm giảm lượng tế bào bạch cầu gọi là tế bào T CD4. Khi số lượng tế bào T của một người giảm xuống dưới 200, bác sĩ có thể chẩn đoán AIDS.
Bệnh bạch cầu: Bệnh bạch cầu là ung thư ảnh hưởng đến máu và tủy xương. Bệnh bạch cầu xảy ra khi các tế bào bạch cầu được sản xuất một cách nhanh chóng nhưng không thể chống lại các tác nhân gây nhiễm trùng.
Xơ hóa tủy xương sơ khởi: Bệnh xảy ra khi tế bào xương sinh ra quá nhiều tế bào máu phát triển và hoạt động bất thường gây mô sẹo xơ hóa do đột biến gen trong tế bào gốc phá hủy khả năng sinh ra tế bào máu bình thường của cơ thể. Từ đó làm người bệnh bị thiếu máu trầm trọng, suy nhược, mệt mỏi.
Việc có cần điều chỉnh số lượng bạch cầu trong máu hay không sẽ phụ thuộc vào chẩn đoán. Nếu có một tình trạng bệnh lý ảnh hưởng đến số lượng tế bào bạch cầu trong cơ thể, bác sĩ sẽ tư vấn thêm cho bệnh nhân về các mục tiêu điều trị đối với từng phương pháp và kế hoạch điều trị.
Có thể hạ thấp số lượng bạch cầu bằng cách dùng các loại thuốc như hydroxyurea hoặc gạn bạch cầu - là một thủ tục sử dụng dùng các thiết bị, máy móc để lọc bớt bạch cầu trong máu.
Nếu số lượng bạch cầu thấp do điều trị ung thư như hóa trị liệu, bác sĩ có thể khuyên nên tránh các hoạt động có nguy cơ gây tổn thương hoặc khiến vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Điều này có thể giúp ngăn ngừa nhiễm trùng.
Một người cũng có thể có các yếu tố kích thích khuẩn lạc –[ Colony-stimulating factors (CSFs) ] có thể giúp ngăn ngừa nhiễm trùng và tăng số lượng tế bào bạch cầu trong cơ thể.
Các tế bào bạch cầu là một phần quan trọng trong phản ứng của hệ thống miễn dịch của cơ thể. Có nhiều loại bạch cầu khác nhau, và mỗi loại có một chức năng cụ thể trong cơ thể.
Một số tình trạng có thể ảnh hưởng đến số lượng tế bào bạch cầu trong cơ thể, dẫn đến việc chỉ số các dòng bạch cầu quá cao hoặc quá thấp. Nếu cần thiết, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân dùng thuốc để kiểm soát số lượng bạch cầu phù hợp.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh