✴️ Vết thương hệ tiết niệu- sinh dục nam (Phần 2)

VẾT THƯƠNG BÀNG QUANG.

Bàng quang là một túi chứa nước tiểu nằm ngay sau khớp mu, khi bàng quang rỗng bàng quang nấp toàn bộ sau khớp mu. Khi bàng quang đầy nước tiểu nó vượt lên trên khớp mu có khi tới sát rốn, ngay sát thành bụng.

Vết thương bàng quang hay gặp khi bàng quang căng đầy nước tiểu, khi bàng quang rỗng thì ít gặp hơn.

Nguyên nhân cơ chế:

Do hoả khí (vũ khí nổ hay vũ khí nóng):

Hoả khí, có thể chia hai loại: 

Đạn thẳng (hay gặp) thường có sức công phá lớn do vận tốc cao, lỗ ra thường lớn hơn lỗ vào.

Mảnh pháo, bom mìn, lựu đạn: thường nhiều vết thương.

Tổn thương rất phức tạp vì: có nhiều tổn thương phối hợp. Ngoài tổn thương trên đường ống vết thương còn tổn thương vùng xung quanh đó là: 

Vùng hoại tử nằm sát ống vết thương. 

Vùng chấn động bị hoại tử thứ phát.

Trong chiến tranh, vết thương bàng quang loại này là chủ yếu.

Do vật sắc nhọn:

Vật sắc nhọn trong đó chia hai loại: 

Vũ khí lạnh: lưỡi lê, kiếm…

Các vật dụng trong sinh hoạt như dao, cọc tre, sừng trâu.

Tổn thương thường đơn giản hơn loại do vũ khí nổ.

Lỗ vào thường ở ngay vùng hạ vị, nhưng có khi từ nơi khác tới như từ trực tràng, âm đạo xuyên lên. Một cơ chế rất đặc trưng ở Việt Nam đó là các cọc tre đâm từ trực tràng, âm đạo xuyên lên khi ngồi đi đại tiện.

Loại này hay gặp trong thời bình hơn, thường do tai nạn trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất, huấn luyện hoặc mâu thuẫn dẫn tới thù hằn đâm chém.

Do các tai nạn trong điều trị: 

Các phẫu thuật sản phụ khoa.

Các phẫu thuật vùng tiểu khung như mổ u sau phúc mạc. 

Trong thủ thuật và phẫu thuật như: nong soi tiết niệu, phẫu thuật cắt u bàng quang, cắt tuyến tiền liệt nội soi.

Do các mảnh xương chậu khi vỡ chọc vào bàng quang:

Thường vỡ xương phức tạp, bệnh nhân mất máu nhiều, có thể tắc mạch do cục mỡ, máu cục di chuyển trong lòng mạch.

Tổn thương giải phẫu bệnh:

Tổn thương một phần thành bàng quang như: 

Tổn thương một phần thành bàng quang bên ngoài: chỉ rách thanh mạc và cơ, lớp niêm mạc còn nguyên.

Tổn thương một phần thành bàng quang bên trong: chỉ rách niêm mạc, thanh mạc và cơ còn nguyên (xảy ra khi soi bàng quang).

Tổn thương thành bàng quang toàn bộ:

Đường rách bàng quang trong phúc mạc. 

Đường rách ngoài phúc mạc, thông với ống tiêu hoá hoặc thủng ra tầng sinh môn.

Vết thương đứt rời cổ bàng quang, đây là một tổn thương nặng nhất nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời thì tỷ lệ tử vong gần như là 100%.

Triệu chứng lâm sàng:

Triệu chứng cơ năng:

Đau vùng hố chậu, vùng hạ vị và vùng tầng sinh môn. Đau với tính chất âm ỉ, liên tục và thỉnh thoảng trội lên thành từng đợt.

Đầy hơi, trướng bụng.

Cảm giác mót rặn tiểu tiện và đại tiện.

Triệu chứng thực thể:

Biểu hiện hội chứng shock:

Mức độ nặng hay nhẹ của hội chứng này tùy thuộc vào mức độ tổn thương tại chỗ và các tạng tổn thương phối hợp. Nguyên nhân cơ chế shock do đau đớn, mất máu và nhiễm khuẩn. Triệu chứng này thường làm lu mờ tổn thương bàng quang.

Tùy theo giai đoạn shock cương hay shock nhược mà biểu hiện khác nhau về: ý thức, mạch, huyết áp, nhiệt độ trên da, phản xạ gân xương. 

Mới đầu shock cương là tình trạng cơ thể huy động hưng phấn các chức năng và các cơ quan trong cơ thể.

Sau đó nếu không điều trị tốt chuyển sang shock nhược là tình trạng các cơ quan suy giảm. 

Vết thương bên ngoài:

Vết thương bên ngoài có thể có cả lỗ vào và lỗ ra, cần khám kỹ vị trí của lỗ vào và lỗ ra, hướng đi của vết thương để dự kiến các tổn thương phối hợp. Nếu vết thương vùng hạ vị mà hướng lên thì sẽ rách phúc mạc, có tổn thương các tạng trong ổ bụng.

Miệng vết thương có thể gặp:

Bẩn hoặc sạch.

Sắc gọn hay bầm giập.

Rộng hay hẹp.

Có máu và nước tiểu rỉ qua không.

Nước tiểu có máu:

Bệnh nhân có thể không đi tiểu được hoặc có thể đi tiểu được nhưng với số lượng ít. 

Nước tiểu có máu tươi, có thể có máu cục.

Rò nước tiểu:

Rò nước tiểu qua miệng vết thương, mức độ rò nước tiểu phụ thuộc tổn thương giải phẫu bệnh và miệng vết thương:

Nếu miệng vết thương rộng thì rò nước tiểu nhiều và ngược lại. 

Vết thương thông với ổ phúc mạc rò ít hơn vết thương ngoài phúc mạc vì một phần nước tiểu vào trong ổ bụng.

Ổ máu tụ ở vùng hố chậu, tầng sinh môn và bìu:

Thường máu tụ nằm vùng sau phúc mạc, lan ra tới tầng sinh môn một cách mờ nhạt.

Ngoài ra có thể có:

Vết thương bàng quang ngoài phúc mạc thì vùng hạ vị co cứng, sờ nắn đau, da bụng nề, thăm trực tràng đau.

Vết thương bàng quang thông với ổ bụng có hội chứng viêm phúc mạc.

Vết thương đứt cổ bàng quang có bí đái.

Triệu chứng về vỡ xương chậu như đau, bất lực vận động chân, ép bửa khung chậu đau.

Khi tổn thương thông giữa bàng quang với đường tiêu hoá (trực tràng) có hội chứng giả lỵ hoặc đi ỉa ra nước tiểu và ngược lại có thể đi đái ra phân hoặc ra giun, ra hơi.

Cận lâm sàng:

Chụp X.quang bàng quang cản quang: Thuốc trào ra khỏi bàng quang.

Chụp X.quang bàng quang bơm hơi:

Hơi trào ra khỏi bàng quang.

Nếu đường rách thông ổ bụng thấy liềm hơi.

Siêu âm:

Nước tiểu đọng khoang sau phúc mạc.

Hoặc nước tiểu vào trong ổ bụng.

Chụp cắt lớp vi tính (CT-Scanner):

Thuốc trào ra khỏi bàng quang.

Nước tiểu đọng khoang sau phúc mạc.

Thấy tổn thương xương chậu.

Soi bàng quang:

Thấy thành bàng quang mất liên tục (lỗ thủng). 

Không bơm căng được bàng quang.

Chẩn đoán:

Để chẩn đoán vết thương bàng quang căn cứ vào:

Lỗ vào và lỗ ra của miệng vết thương.

Rỉ nước tiểu qua miệng vết thương.

Không có cầu bàng quang, không có bãi đái.

Khi bơm nước vào bàng quang, rút ra được lượng nước ít hơn lượng nước đưa vào.

Chụp bàng quang có thuốc ra khỏi thành bàng quang.

Di chứng vết thương bàng quang:

Rò bàng quang trên mu hay rò vào âm đạo, trực tràng.

Nhiễm khuẩn lan toả vùng hố chậu khoang sau phúc mạc. 

Điều trị:

Nguyên tắc:

Vết thương bàng quang bắt buộc phải phẫu thuật.

Đường mổ phải đủ rộng nên đi đường trắng giữa trên và dưới rốn.

Tổ chức cấp cứu theo tuyến:

Tuyến y tế sơ cứu (Quân y đại đội, tiểu đoàn. Y tế xã và liên xã):

Băng che phủ vết thương.

Phòng và chống shock đơn giản như bất động, ủ ấm, giảm đau.

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Tuyến cứu chữa cơ bản (Quân y trung đoàn, đội phẫu lưu động, y tế huyện):

Phòng và chống shock: giảm đau, truyền dịch. 

Tiêm SAT, kháng sinh.

Giải quyết những rối loạn nguy hiểm tới tính mạng như: hút đờm dãi, chọc hút khí, dịch khoang màng phổi (nếu có).

Nếu shock do mất máu, do tổn thương cuống mạch lớn, vừa hồi sức vừa mổ cầm máu.

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Kỹ thuật tại tuyến chuyên khoa:

Cắt lọc lấy dị vật, khâu vết thương bàng quang (nếu vết thương ngoài ổ phúc mạc). Mở ổ phúc mạc kiểm tra lau sạch ổ bụng nếu cần đặt dẫn lưu Dougla, ngoài phúc mạc hoá bàng quang (nếu vết thương thông ổ bụng). Đặt dẫn lưu bàng quang trên mu. Dẫn lưu khoang cạnh bàng quang

Nếu có chảy máu lớn trong đứt cổ bàng quang thì thắt động mạch chậu trong một hoặc hai bên. Việc xử trí đứt cổ bàng quang có thể khâu đính cổ bàng quang với niệu đạo ở vị trí 5h, 7h, 14h, 16h, đồng thời đặt sonde Foley qua niệu đạo vào bàng quang dể kéo bàng quang xuống.

 

VẾT THƯƠNG NIỆU ĐẠO.

Niệu đạo là một đường ống dẫn nước tiểu từ cổ bàng quang ra ngoài miệng sáo, niệu đạo có kích thước nhỏ 3 - 4 mm. Niệu đạo nam giới dài 16 cm, trong đó đoạn cố định gồm niệu đạo tuyến tiến liệt, niệu đạo màng, niệu đạo tầng sinh môn và niệu đạo bìu. Đoạn di động là niệu đạo dương vật, nằm trong vật xốp của dương vật. Niệu đạo nữ cố định dài 3 cm.

Vết thương niệu đạo hiếm gặp, trong đó thời bình hay gặp hơn thời chiến.

Nguyên nhân:

Do vật sắc nhọn:

Vật sắc nhọn trong đó chia hai loại: 

Vũ khí lạnh: lưỡi lê, dao. 

Các vật dụng trong sinh hoạt như dao, cọc tre, đầu bút chì, đầu sắt nhọn trong các phương tiện giao thông.

Tổn thương thường đơn giản hơn loại do vũ khí nổ.

Lỗ vào thường ở ngay vùng tầng sinh môn, hiếm khi từ nơi xa tới như từ trực tràng xuyên đến.

Loại này hay gặp trong thời bình, thường do tai nạn giao thông, tai nạn trong lao động sản xuất và huấn luyện hoặc ghen tuông cắt dương vật trong đó có niệu đạo.

Do hoả khí (vũ khí nổ hay vũ khí nóng):

Hoả khí chia hai loại: 

Đạn thẳng (hay gặp) thường có sức công phá lớn do vận tốc cao, lỗ ra thường lớn hơn lỗ vào.

Mảnh pháo, bom mìn, lựu đạn: thường nhiều vết thương.

Tổn thương rất phức tạp vì: có nhiều tổn thương phối  hợp. Ngoài tác dụng trên đường ống vết thương còn tổn thương vùng xung quanh đó là:

Vùng hoại tử nằm sát ống vết thương. 

Vùng chấn động bị hoại tử thứ phát.

Do các tai nạn trong điều trị: 

Thủ thuật nong soi trong tiết niệu làm thô bạo.

Phẫu thuật trực tràng, âm đạo gây nên.

Tổn thương giải phẫu bệnh:

Tổn thương một phần thành niệu đạo như: 

Tổn thương một phần thành niệu đạo bên ngoài: chỉ rách thanh mạc và cơ, lớp niêm mạc còn nguyên.

Tổn thương một phần thành niệu đạo bên trong: chỉ rách niêm mạc và thanh mạc, lớp cơ còn nguyên (xảy ra khi nong soi niệu đạo).

Thủng: rách toàn bộ 3 lớp: niêm mạc, cơ, thanh mạc.

Đứt rời niệu đạo.

Mất đoạn niệu đạo.

Triệu chứng lâm sàng:

Vết thương bên ngoài thường nằm vùng tầng sinh môn, có thể có cả lỗ vào và lỗ ra, có thể chỉ có một lỗ vào.

Phải căn cứ vào vị trí của lỗ vào và lỗ ra và hướng đi của vết thương để dự kiến các tổn thương phối hợp.

Miệng vết thương có thể gặp:

Bẩn hoặc sạch..

Sắc gọn hay bầm giập.

Rộng hay hẹp.

Có máu và nước tiểu rỉ qua không.

Thể tổn thương một phần niệu đạo:

Khi đái, cảm giác đau tại chỗ niệu đạo tổn thương.

Có thể có máu chảy miệng sáo ngoài bãi đái hoặc đái đỏ đầu bãi.

Thể thủng niệu đạo:

Khi đái, cảm giác đau tại chỗ niệu đạo tổn thương.

Máu chảy miệng sáo ngoài bãi đái hoặc đái đỏ đầu bãi.

Nước tiểu chảy qua vết thương, có thể có chảy nước tiểu đầu miệng sáo.

Thể đứt niệu đạo:

Chảy máu đầu miệng sáo ngoài bãi đái.

Bí đái nếu tổ chức miệng vết thương bầm giập nhiều, hoặc nếu đái được thì nước tiểu chảy toàn bộ qua vết thương, đau tại chỗ tổn thương.

Tụ máu vùng tầng sinh môn.

Thể mất đoạn niệu đạo:

Thường là vết thương rộng chảy máu nhiều.

Bí đái nếu tổ chức miệng vết thương bầm giập nhiều, hoặc nước tiểu chảy toàn bộ qua vết thương mỗi khi đi đái.

Tụ máu vùng tầng sinh môn.

Cận lâm sàng:

Chụp niệu đạo ngược dòng: thuốc trào ra khỏi niệu đạo.

Soi niệu đạo: mất sự liên tục của niệu đạo.

Chẩn đoán:

Miệng vết thương.

Nước tiểu chảy qua miệng vết thương khi đái.

Chụp niệu đạo ngược dòng thấy thuốc trào khỏi niệu đạo.

Biến chứng:

Nhiễm khuẩn niệu.

Hẹp niệu đạo di chứng.

Điều trị:

Tổ chức cấp cứu theo tuyến:

Tuyến y tế sơ cứu (Quân y đại đội, tiểu đoàn, y tế xã và liên xã):

Băng che phủ vết thương.

Phòng và chống shock đơn giản như bất động, ủ ấm, giảm đau nếu có nhiều tổn thương phối hợp.

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Tuyến cứu chữa cơ bản (Quân y trung đoàn, đội phẫu lưu động, y tế huyện):

Tiêm SAT, kháng sinh.

Phòng và chống shock: giảm đau, truyền dịch (nếu có nhiều tổn thương phối hợp).

Kẹp mạch máu đang chảy, hay khâu cầm máu tạm thời.

Vận chuyển về tuyến sau.

Kỹ thuật tại tuyến chuyên khoa:

Cắt lọc vết thương, lấy dị vật, khâu cầm máu, có thể khâu, nối niệu đạo tận - tận trên nòng niệu đạo. 

Dẫn lưu bàng quang trên mu.

Nếu mất đoạn lớn, hoạc bệnh nhân tới muộn: đưa hai đầu niệu đạo ra da để tạo hình kỳ 2.

 

VẾT THƯƠNG DƯƠNG VẬT.

Dương vật là tạng di động, được cấu tạo gồm hai vật hang và vật xốp, trong vật xốp có niệu đạo dương vật. Vật hang dính vào phía sau với ngành ngồi - mu. Dương vật có hệ thống mạch máu rất phong phú nên khi tổn thương chảy nhiều máu.

Vết thương dương vật hiếm gặp:

Trong thời chiến, vết thương dương vật xếp cuối cùng trong các loại vết thương.

Trong thời bình, hay gặp hơn thời chiến và thường do ghen tuông hay trẻ nhỏ nghịch ngợm.

Nguyên nhân:

Do vật sắc:

Vật sắc nhọn trong đó chia hai loại: 

Vũ khí lạnh: lưỡi lê, kiếm.

Các vật dụng trong sinh hoạt như dao, khoá quần.

Tổn thương thường đơn giản hơn loại do vũ khí nổ.

Loại này hay gặp trong thời bình hơn, thường do mâu thuẫn ghen tuông dẫn tới thù hằn, hay tai nạn trong lao động sản xuất và huấn luyện .

Do động vật cắn như

Bị lợn, chó cắn vào dương vật.

Do các vòng đeo vào gốc dương vật: 

Trẻ em lấy vòng kim loại đeo vào gốc dương vật rối quên, khi dương vật cương cứa rách dương vật.

Do hoả khí (vũ khí nổ hay vũ khí nóng):

Hoả khí chia hai loại: 

Đạn thẳng (hay gặp) thường có sức công phá lớn do vận tốc cao, lỗ ra thường lớn hơn lỗ vào.

Mảnh pháo, bom mìn, lựu đạn: thường nhiều vết thương.

Ít gặp, nếu gặp thì tổn thương rất phức tạp vì: có nhiều tổn thương phối  hợp.

Ngoài tác dụng trên đường ống vết thương còn tổn thương vùng xung quanh đó là: 

Vùng hoại tử nằm sát ống vết thương. 

Vùng chấn động bị hoại tử thứ phát. 

Tổn thương giải phẫu bệnh:

Rách da dương vật.

Lóc da dương vật.

Xuyên thủng.

Đứt một phần dương vật, có thể tổn thương niệu đạo.

Đứt rời dương vật. 

Triệu chứng lâm sàng:

Vết thương bên ngoài nằm ngay ở dương vật, có thể có cả lỗ vào và lỗ ra, có thể chỉ có một lỗ vào.

Phải căn cứ vào vị trí của lỗ vào và lỗ ra để dự kiến xem có tổ thương niệu đạo không.

Miệng vết thương có thể gặp:

Bẩn hoặc sạch.

Sắc gọn hay bầm giập.

Rộng hay hẹp.

Có máu và nước tiểu rỉ qua không.

Thường đau tại chỗ tổn thương.

Chảy nhiều máu tại chỗ tổn thương.

Chẩn đoán:

Thường dễ chẩn đoán, nhưng cần khám tỉ mỉ để phát hiện mức độ tổn thương, đánh giá có tổn thương niệu đạo không để xử lý.

Biến chứng:

Rối loạn cương dương vật.

Cong vẹo dương vật do xơ hoá vật hang.

Xử trí:

Tổ chức cấp cứu theo tuyến:

Tuyến y tế sơ cứu (Quân y đại đội, tiểu đoàn, y tế xã và liên xã):

Băng che phủ vết thương.

Phòng và chống shock đơn giản như bất động, ủ ấm, giảm đau (nếu có nhiều tổn thương phối hợp).

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Tuyến cứu chữa cơ bản (Quân y trung đoàn, đội phẫu lưu động, y tế huyện):

Tiêm SAT, kháng sinh.

Phòng và chống shock: giảm đau, truyền dịch (nếu có nhiều tổn thương  phối hợp).

Kẹp mạch máu đang chảy, hay khâu cầm máu tạm thời.

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Kỹ thuật tại tuyến chuyên khoa:

Trong trường hợp thủng, đứt một phần thì cắt lọc, rửa sạch vết thương, lấy dị vật, khâu cầm máu, nếu cần thì đặt máng dẫn lưu và băng ép. Có thể đặt dẫn lưu bàng quang qua niệu đạo hoặc mở dẫn lưu bàng quang trên mu.

Nếu đứt dương vật mà bệnh nhân đến sớm có mang theo đoạn ngoại vi, dùng vi phẫu để nối lại dương vật.

Nếu bệnh nhân tới muộn: cầm máu bằng thắt động mạch lưng dương vật, thắt hai tĩnh mạch hang, khâu vùi mỏm cụt dương vật bằng bao trắng, giải phóng thể xốp niệu đạo, đưa niệu đạo ra da hoặc tầng sinh môn (nếu đứt đoạn dương vật). 

 

VẾT THƯƠNG VÙNG HẠ NANG.

Vùng hạ nang hay vùng tầng sinh môn nằm giữa mặt trong hai đùi, bờ dưới khớp mu và hậu môn, trong đó có bìu. Nằm trong bìu có tinh hoàn, mào tinh hoàn và thừng tinh. Vùng hạ nang tổ chức liên kết lỏng lẻo nhưng có hệ thống mạch máu phong phú.

Vết thương vùng hạ nang hiếm gặp, nhưng trong thời bình hay gặp hơn thời chiến.

Nguyên nhân:

Do vật sắc nhọn:

Vật sắc nhọn trong đó chia hai loại: 

Vũ khí lạnh: lưỡi lê, kiếm.

Các vật dụng trong sinh hoạt như dao, cọc tre, sừng trâu.

Tổn thương thường đơn giản hơn loại do vũ khí nổ.

Loại này hay gặp trong thời bình hơn, thường do tai nạn trong lao động sản xuất và huấn luyện hay do mâu thuẫn dẫn tới thù hằn đâm chém.

Do hoả khí (vũ khí nổ hay vũ khí nóng):

Hoả khí chia hai loại: 

Đạn thẳng (hay gặp) thường có sức công phá lớn do vận tốc cao, lỗ ra thường lớn hơn lỗ vào.

Mảnh pháo, bom mìn, lựu đạn: thường nhiều vết thương.

Tổn thương rất phức tạp vì: có nhiều tổn thương phối  hợp. Ngoài tác dụng trên đường ống vết thương còn tổn thương vùng xung quanh đó là:

Vùng hoại tử nằm sát ống vết thương. 

Vùng chấn động sẽ bị hoại tử thứ phát. 

Do động vật cắn:

Bị chó, lợn cắn vào hạ nang.

Tổn thương giải phẫu bệnh:

Rách da vùng hạ nang.

Lóc da vùng bìu không lộ tinh hoàn.

Vết thương lộ tinh hoàn.

Tổn thương tinh hoàn, mào tinh hoàn.

Tổn thương các thành phần trong thừng tinh.

Triệu chứng lâm sàng:

Vết thương bên ngoài thường nằm vùng tầng sinh môn, có thể có cả lỗ vào và lỗ ra, có thể chỉ có một lỗ vào.

Phải căn cứ vào vị trí của lỗ vào và lỗ ra để dự kiến các tổn thương phối hợp như trực tràng, bàng quang.

Miệng vết thương có thể gặp:

Bẩn hoặc sạch.

Sắc gọn hay bầm giập.

Rộng hay hẹp.

Có máu và nước tiểu rỉ qua không.

Thường đau tại chỗ tổn thương.

Có thể đau lan lên vùng hố chậu và vùng thắt lưng nếu xoắn tinh hoàn, tinh hoàn bị tổn thương.

Chảy nhiều máu.

Chẩn đoán:

Vết thương vùng hạ nang thường dễ chẩn đoán. Nhưng cần khám xét tỉ mỉ để phát hiện mức độ tổn thương, đánh giá có tổn thương niệu đạo không để xử lý.

Điều trị:

Tổ chức cấp cứu theo tuyến:

Tuyến y tế sơ cứu (Quân y đại đội, tiểu đoàn, y tế xã và liên xã):

Băng che phủ vết thương.

Phòng và chống schock đơn giản như bất động, ủ ấm, gảm đau nếu có nhiều tổn thương phối hợp.

Vận chuyển thương binh về tuyến sau.

Tuyến cứu chữa cơ bản (Quân y trung đoàn, đội phẫu lưu động, y tế huyện).

Tiêm SAT, Kháng sinh.

Kẹp mạch máu đang chảy, hay khâu cầm máu tạm thời.

Nếu vết thương đơn giản thì cho phép xử lý: cắt lọc lấy dị vật, cầm máu và khâu da thưa kỳ đầu nhưng phải theo dõi.

Vận chuyển thương bệnh binh về tuyến sau.

Kỹ thuật tại tuyến chuyên khoa:

Cắt lọc, lấy dị vật, rửa sạch vết thương, khâu cầm máu kỹ, nếu lộ tinh hoàn thì tìm cách che phủ.

Nếu có tổn thương tinh hoàn hay thừng tinh cần thận trọng giữ tinh hoàn tối đa, kiểm tra bằng cách: phong bế thừng tinh, đắp NaCl 0,09% ấm.

Nếu da bìu mất không có khả năng che phủ tinh hoàn: kéo vùi tinh hoàn vào tổ chức dưới da ở mặt trong đùi hay hố chậu, sau đó thì 2 mổ tạo hình da bìu, thì 3 mổ đưa tinh hoàn trở lại bìu.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top