Phù phổi cấp hay còn gọi là ngạt thở cấp, đây là dạng bệnh cấp tính, ứ quá nhiều dịch trong khoảng kẽ và trong lòng phế nang dẫn đến suy hô hấp.
Nguyên nhân gây bệnh rất đa dạng, tùy từng nguyên nhân mà mức độ nguy hiểm và tiến triển của bệnh có thể khác nhau. Việc điều trị cũng cần dựa trên nguyên nhân để thực hiện.
Những nguyên nhân gây phù phổi cấp được chia thành 2 nhóm là phù phổi cấp huyết động và phù phổi cấp tổn thương với đặc trưng bệnh khác nhau.
Nguyên nhân phù phổi cấp huyết động:
Phù phổi cấp lâm sàng tương ứng với giai đoạn phế nang cuối cùng, gây ra đặc trưng bệnh là suy tim trái, suy hô hấp.
Triệu chứng bệnh ban đầu sẽ giúp bác sĩ xác định và chỉ định chẩn đoán bệnh phù phổi cấp nhanh chóng. Cụ thể như sau:
Bệnh nhân phù phổi cấp thường có những triệu chứng khá rõ ràng. Cơn phù phổi cấp thường xuất hiện đột ngột, tiến triển nhanh và hay gặp vào ban đêm với các biểu hiện:
Ngoài triệu chứng hô hấp điển hình, bệnh nhân phù phổi cấp còn gặp phải những triệu chứng toàn thân khác như: Phù chân, báng bụng, mỏm tim bị lệch ra ngoài hoặc xuống dưới khoang liên sườn,.. Ngoài ra, tùy theo nguyên nhân gây phù phổi cấp mà bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng bệnh lý khác.
Chụp X-quang ở bệnh nhân phù phổi cấp sẽ thấy phù mô kẽ, phù phế nang, phù lan tỏa hình cánh bướm từ rốn phổi đến vùng ngoại biên. Chỉ số tim lồng ngực > 50%.
Điện tâm đồ sẽ giúp kiểm tra các dấu hiệu bệnh tim liên quan đến phù phổi cấp như: thiếu máu tim cục bộ, rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim.
Đa phần bệnh nhân phù phổi cấp sau khi được cấp cứu và tình trạng sức khỏe tạm ổn sẽ chỉ định siêu âm tim để kiểm tra. Nhưng trong trường hợp có biến chứng nhồi máu cơ tim cấp như cột cơ van 2 lá, đứt dây chằng, thủng vách liên thất,…
Ngoài ra, bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm và thăm dò khác:
Cấp cứu với bệnh nhân phù phổi cấp rất quan trọng, có thể giảm các biến chứng nặng khó phục hồi cho phổi, tim cũng như đảm bảo sức khỏe cho người bệnh. Đầu tiên cần xử lý nhanh nếu bệnh nhân có triệu chứng điển hình của phù phổi cấp, cần đặt họ vào tư thế Fowler (nửa nằm nửa ngồi).
Bệnh nhân cần được đảm bảo hô hấp, cho thở oxy ngay từ ban đầu để duy trì đảm bảo SP02 >90%. Bệnh nhân sẽ được thở oxy liều cao, thở máy không xâm nhập, đặt nội khí quản, thở máy xâm nhập, dùng thuốc giãn phế quản nếu có biểu hiện co thắt phế quản; Giảm tiền gánh; Giảm hậu gánh; Hỗ trợ tim, và điều trị hồi sức tích cực nếu có.
Điều trị phù phổi cấp hiện nay chủ yếu được dùng thuốc Morfin sulfat. Liều sử dụng ban đầu thường là 8mg theo đường tĩnh mạch, với trường hợp nhẹ có thể tiêm dưới da. Sử dụng lặp lại thuốc này cho đến khi tình trạng bệnh ổn định. Thuốc có tác dụng giảm áp lực của nhĩ trái, tăng sức chứa tĩnh mạch nên sẽ giảm nhẹ được triệu chứng bệnh.
Tuy nhiên, sử dụng Morphin điều trị có thể gây giảm động tác hô hấp nên chỉ định và theo dõi nghiêm ngặt. Bệnh nhân phù phổi cấp do thuốc mê không thể dùng thuốc Morphin điều trị, thay vào đó nên dùng thuốc đối kháng với thuốc gây mê. Ngoài ra, thuốc cũng chống chỉ định với bệnh nhân phù phổi cấp do nguyên nhân thần kinh.
Trong điều trị cấp cứu và theo dõi cho bệnh nhân phù phổi cấp, bác sĩ sẽ dựa trên dấu hiệu lâm sàng cũng như điện tâm đồ. Điều quan trọng là phải đảm bảo độ bão hòa oxy qua mạch cho bệnh nhân.
Điều trị phù phổi cấp phải tiến hành nhanh, kịp thời để cứu sống người bệnh và hạn chế những tổn thương phổi hoặc tim mạch khó hồi phục. Sau đó là điều trị duy trì để phục hồi tổn thương cũng như phòng ngừa bệnh tái phát.
Xem thêm: Suy hô hấp cấp tính
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh