Một số khu vực của não bộ giúp điều chỉnh tâm trạng. Các nhà nghiên cứu tin rằng, quan trọng hơn cả sự mất cân bằng giữa các chất hóa học cụ thể trong não thì những kết nối tế bào thần kinh, sự phát triển của tế bào thần kinh và hoạt động của các mạch thần kinh có tác động lớn đến bệnh trầm cảm.
Thông qua các phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại như: PET, SPECT, MRI… người ta phát hiện ra rằng, hồi hải mã nhỏ hơn ở một số người trầm cảm. Trong một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học Thần kinh, các nhà điều tra đã phát hiện ra hồi hải mã ở phụ nữ trầm cảm nhỏ hơn 9-13% hồi hải mã của phụ nữ bình thường. Kích thước hồi hải mã cũng tỷ lệ nghịch với tần suất xuất hiện của các cơn trầm cảm.
Các nhà khoa học đã xác định được rất nhiều chất dẫn truyền thần kinh khác nhau có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của trầm cảm.
Các nghiên cứu về gia đình và sinh đôi đã cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về sự đóng góp của những yếu tố di truyền vào nguy cơ trầm cảm. Ví dụ, một phân tích tổng hợp dữ liệu nghiên cứu song sinh cho thấy tỷ lệ di truyền đối với bệnh trầm cảm là 37%, và dữ liệu từ các nghiên cứu gia đình cho thấy nguy cơ mắc bệnh trầm cảm tăng gấp 2-3 lần ở con cái, nếu có cha mẹ bị bệnh trầm cảm. Mức độ nghiêm trọng của bệnh trầm cảm cũng phụ thuộc vào việc nó được di truyền từ bố hay mẹ.
Trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 7 năm 2015 trên tạp chí Nature, các nhà khoa học cho biết đã tìm thấy hai dấu hiệu di truyền có liên quan rõ ràng đến chứng trầm cảm nặng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của gen trong việc hình thành khả năng thích nghi, phản ứng đáp trả trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài với từng cá nhân.
Có vô vàn những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày tác động đến tâm lý, tình cảm của con người. Có những chuyện sẽ mau chóng qua đi nhưng cũng có những sự kiện để lại những ám ảnh sâu sắc trong tâm trí của mỗi cá nhân.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những mất mát sớm và chấn thương tinh thần có thể khiến các cá nhân dễ bị trầm cảm hơn trong cuộc sống sau này. Những mất mát to lớn như cái chết của người thân thiết, bị bỏ rơi, bị bạo hành, bị lạm dụng tình dục, thậm chí là những sang chấn, chấn thương sau chiến tranh…. có thể trở thành kí ức không thể quên, là nỗi ám ảnh dai dẳng và hậu quả là trầm cảm. Thậm chí có những người sau điều trị vẫn rất dễ bị tái phát vì đó là phần quá khứ không thể thay đổi hoặc khi gặp phải một biến cố tương tự.
Một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ cho thấy, những người bị lạm dụng thể chất hoặc tình dục khi còn nhỏ sẽ có xu hướng phản ứng mạnh và tiêu cực với những căng thẳng từ cuộc sống hàng ngày so với những người không bị bạo hành.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, sang chấn tâm lý từ khi còn nhỏ sẽ gây ra những thay đổi trong chức năng não, làm xuất hiện các triệu chứng trầm cảm và lo âu sau này. Các vùng não bộ liên quan đến phản ứng căng thẳng có thể bị thay đổi về cấu trúc, hình thái và chức năng ở cấp độ hóa học hoặc tế bào. Những thay đổi có thể bao gồm sự mất cân bằng về nồng độ chất dẫn truyền thần kinh hoặc tổn thương thực thể các tế bào thần kinh.
Đối mặt với những căng thẳng trong cuộc sống như: Thất nghiệp, thất tình, bệnh tật, sự chia ly, bạo lực… mỗi cá nhân sẽ có những phản ứng và khả năng thích nghi khác nhau. Mặc dù không phải tất cả ai đối mặt với những căng thẳng này đều mắc rối loạn tâm thần, nhưng trên thực tế có nhiều người không thể vượt qua và đó có thể là khởi nguồn của trầm cảm.
Cấu tạo gen ảnh hưởng đến phản ứng thích nghi và đáp ứng của bạn với các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống. Khi yếu tố di truyền và các tình huống căng thẳng kết hợp với nhau hoàn toàn có thể dẫn đến trầm cảm.
Căng thẳng kéo dài cũng dẫn đến hàng loạt sự thay đổi về sinh lý cơ thể gây nên những rối loạn chức năng của cơ quan. Nó gây ra một chuỗi các phản ứng và phản ứng hóa học trong cơ thể. Nếu tình trạng căng thẳng diễn ra trong thời gian ngắn, cơ thể có thể ít bị ảnh hưởng và dễ dàng trở lại trạng thái bình thường hơn. Nhưng nếu căng thẳng kéo dài, mức độ căng thẳng cao, những thay đổi trong cơ thể và não bộ có thể bị rối loạn và dẫn đến các cơ chế bệnh sinh trầm cảm.
Có thể nói, các loại thuốc tác động đến nồng độ các chất hóa học trong não theo một cách nào đó có thể dẫn đến chứng trầm cảm.Ví dụ:
Có nhiều bệnh lý thực thể có thể là nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm thần. Theo nhiều số liệu thống kê, bệnh tật và thuốc điều trị chiếm 10-15% nguyên nhân gây trầm cảm.
Các bệnh lý của cơ thể có thể là nguyên nhân gây trầm cảm, đồng thời trầm cảm cũng thể xuất hiện trước khi cơ thể bị bệnh thật sự.
Nghiện chơi điện tử, nghiện facebook, nghiện tiktok… khiến con người chìm đắm trong thế giới ảo và làm giảm thời gian tương tác giữa người với người trong thế giới thực tại. Điều này dẫn đến rất nhiều vấn đề về rối loạn tâm lý, trong đó có trầm cảm.
Trầm cảm là một bệnh lý phức tạp do nhiều yếu tố và nguyên nhân tác động qua lại lẫn nhau. 7 yếu tố kể trên chỉ là những nguyên nhân phổ biến đại diện cho vô vàn các nguyên nhân, yếu tố nguy cơ khiến một người rơi vào trạng thái trầm cảm. Việc thường xuyên rèn luyện bản thân, tăng cường giao lưu trực tiếp và thực hiện lối sống lành mạnh, suy nghĩ tích cực sẽ giúp chúng ta mau chóng thoát khỏi những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, từ đó làm giảm nguy cơ mắc trầm cảm.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh