Bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do Corynebacterium diphtheriae gây ra, đặc trưng bởi sự hình thành giả mạc ở hầu họng, thanh quản, mũi, và đôi khi ở da, kết mạc hoặc bộ phận sinh dục. Bệnh vừa mang tính nhiễm trùng tại chỗ vừa mang tính nhiễm độc toàn thân do độc tố do vi khuẩn tiết ra. Đây là bệnh truyền nhiễm nhóm B – nhóm có khả năng lây lan nhanh và có thể gây tử vong.
Bệnh chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi, đặc biệt ở những đối tượng chưa được tiêm chủng đầy đủ. Tỷ lệ tử vong trong các thể nặng có thể lên tới 50% nếu không được điều trị kịp thời và vẫn dao động từ 5–17% ngay cả khi đã được điều trị đúng phác đồ.
Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae, thuộc họ Corynebacteriaceae, gồm ba týp sinh học chính: Gravis, Mitis, và Intermedius. Vi khuẩn có sức đề kháng cao với môi trường, tồn tại:
Trên vải: đến 30 ngày
Trong bụi: 5 tuần
Trên cát: đến 100 ngày
Trong tử thi: 2 tuần
Trong sữa và nước: 20 ngày
Vi khuẩn nhạy cảm với nhiệt độ cao và ánh sáng. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, vi khuẩn chết sau vài giờ; ở 58°C sống được 10 phút; bị bất hoạt bởi phenol 1% hoặc cồn 60° trong 1 phút.
Người bệnh và người lành mang vi khuẩn là nguồn lây chính. Các đối tượng không có triệu chứng lâm sàng (khoảng 80%) vẫn có thể đào thải vi khuẩn ra môi trường.
Trực tiếp: qua giọt bắn từ người bệnh qua đường hô hấp.
Gián tiếp: qua vật dụng, đồ chơi nhiễm dịch tiết của người bệnh.
Ủ bệnh: từ 2–5 ngày.
Lây truyền: bắt đầu từ cuối thời kỳ ủ bệnh, kéo dài khoảng 2 tuần, có thể lâu hơn ở người mang vi khuẩn.
Tất cả những người chưa có miễn dịch đều có nguy cơ mắc bệnh. Trẻ sơ sinh có thể được bảo vệ tạm thời nhờ kháng thể từ mẹ nhưng miễn dịch này thường mất hiệu lực sau 6 tháng. Miễn dịch sau khi mắc bệnh thường bền vững. Lưu ý, miễn dịch với độc tố không đồng nghĩa với miễn dịch ngăn nhiễm trùng tại chỗ vùng hầu họng.
Xuất hiện giả mạc dai, màu trắng ngà đến xám đen ở hầu họng, thanh quản – đặc trưng nổi bật của bệnh.
Sốt, đau họng, khàn tiếng, sưng hạch cổ.
Khó thở, thở nhanh, chảy dịch mũi.
Mệt mỏi toàn thân, khó chịu, ớn lạnh.
Thể thanh quản: thường gặp ở trẻ em, diễn tiến nặng, nguy cơ bít tắc đường thở.
Thể mũi: thể nhẹ, đôi khi không sốt.
Thể da: ít gặp, thường gặp ở vùng da bị tổn thương.
Thể không triệu chứng: phổ biến (80%), là nguồn lây tiềm ẩn trong cộng đồng.
Bít tắc đường thở do giả mạc.
Viêm cơ tim, tổn thương thần kinh (liệt vận động), viêm thận.
Tỷ lệ tử vong cao nếu không điều trị kịp thời.
Bệnh lưu hành rộng rãi, tỷ lệ mắc 4/100.000 dân.
Tỷ lệ tử vong lên đến 16,6%.
Dịch thường xảy ra tại các đô thị lớn, chủ yếu ở trẻ <15 tuổi.
Sau khi triển khai vaccine vào chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR), tỷ lệ mắc giảm rõ rệt.
Đến năm 2000, trung bình chỉ còn khoảng 125 ca/năm và 10 ca tử vong/năm.
Tỷ lệ mắc giảm xuống dưới 0,01/100.000 dân.
Tuy nhiên, vẫn ghi nhận các ổ dịch tại khu vực vùng sâu, vùng xa – nơi có độ bao phủ vaccine thấp (Tây Nguyên năm 2020, miền Bắc năm 2023).
Trong TCMR: DPT, ComBeFive, SII (miễn phí).
Ngoài TCMR (dịch vụ): Adacel, Boostrix, Tetraxim, Pentaxim, Infanrix Hexa, Hexaxim.
Bắt buộc: 3 liều cơ bản bắt đầu từ 2 tháng tuổi, cách nhau ≥1 tháng; nhắc lại lần 1 lúc 18 tháng tuổi.
Khuyến cáo nhắc lại:
4–7 tuổi.
12–15 tuổi.
Mỗi 10 năm ở người trưởng thành với vaccine chứa Td hoặc Tdap.
Đảm bảo tỷ lệ tiêm chủng đạt ≥95% tại các xã, phường – đặc biệt là khu vực khó tiếp cận y tế – là điều kiện tiên quyết để ngăn ngừa dịch bệnh quay trở lại.
Các ổ dịch hiện nay chủ yếu xuất hiện ở vùng núi, vùng khó khăn, nơi tỷ lệ bao phủ tiêm chủng chưa đạt ngưỡng miễn dịch cộng đồng.
Miễn dịch suy giảm theo thời gian nếu không tiêm nhắc định kỳ.
Người lớn và trẻ lớn chưa tiêm nhắc là nhóm có nguy cơ cao nếu vi khuẩn xâm nhập.
Tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch theo hướng dẫn của chương trình TCMR và khuyến cáo của ngành y tế.
Vệ sinh cá nhân: rửa tay thường xuyên, che miệng khi ho, giữ sạch vùng mũi họng.
Vệ sinh môi trường: lớp học, nhà ở cần thông thoáng, đủ ánh sáng.
Cách ly và điều trị sớm khi nghi ngờ mắc bệnh.
Uống thuốc phòng và tiêm vaccine trong vùng có ổ dịch theo chỉ đạo y tế.
Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể gây biến chứng nghiêm trọng và tử vong, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Dù đã có vaccine hiệu quả, nguy cơ bùng phát dịch vẫn tồn tại nếu độ bao phủ tiêm chủng không đạt yêu cầu.
Tiêm chủng đầy đủ, duy trì tiêm nhắc định kỳ và tăng cường phát hiện, cách ly, xử trí sớm là các chiến lược trọng yếu để kiểm soát bệnh bạch hầu, hướng đến loại trừ bệnh trong tương lai.